1129. 1257, 2003, 460
Hội Thánh khẳng định rằng, đối với các tín hữu, các bí tích của Giao Ước Mới là cần thiết cho ơn cứu độ.46 “Ân sủng bí tích” là ân sủng của Chúa Thánh Thần được Đức Ki-tô ban cho riêng từng bí tích. Chúa Thánh Thần chữa lành và biến đổi những ai đón nhận Ngài bằng cách làm cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con Thiên Chúa. Hoa trái của đời sống bí tích là, Thần Khí của ơn làm nghĩa tử làm cho các tín hữu được tham dự bản tính Thiên Chúa bằng cách kết hợp họ một cách sống động với Người Con duy nhất, là Đấng Cứu Độ.47
V. Các bí tích của đời sống vĩnh cửu (1130)
1130. 2817, 950
Hội Thánh cử hành mầu nhiệm của Chúa mình “cho tới khi Chúa đến” (1 Cr 11,26), lúc “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28). Ngay từ thời các Tông Đồ, phụng vụ đã được hướng đến cùng đích của mình qua lời rên xiết của Thần Khí trong Hội Thánh: “Marana tha! – Lạy Chúa, xin ngự đến!” (1 Cr 16,22). Như thế, Phụng vụ chia sẻ nỗi khát khao của Chúa Giê-su: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em… cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa” (Lc 22,15.16). Trong các bí tích của Đức Ki-tô, Hội Thánh đã nhận được bảo chứng gia tài của mình, đã được dự phần vào đời sống vĩnh cửu, đang khi “trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2,13). “Thần Khí và Tân Nương nói: Xin Ngài ngự đến… Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến” (Kh 22,17.20).
Thánh Tô-ma tóm lược các chiều kích khác nhau của dấu chỉ bí tích như sau: “Bí tích là dấu chỉ nhắc nhớ điều đã xẩy ra trước nó, tức là cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô; là dấu chỉ cho thấy điều được thực hiện nơi chúng ta nhờ cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô, tức là ân sủng; là dấu chỉ tiên báo, tức là báo trước vinh quang tương lai.”48
Tóm lược (1131-1134)
1131. Các bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng, do Đức Ki-tô thiết lập và ủy thác cho Hội Thánh; qua các bí tích, sự sống thần linh được trao ban cho chúng ta. Các nghi thức khả giác được dùng để cử hành bí tích, biểu thị và thực hiện ân sủng riêng của từng bí tích. Các bí tích mang lại hoa trái nơi những người lãnh nhận có sự chuẩn bị nội tâm cần thiết.
1132. Hội Thánh cử hành các bí tích với tư cách là một cộng đoàn tư tế có tổ chức, gồm chức tư tế do bí tích Rửa Tội, và chức tư tế của các thừa tác viên có chức thánh.
1133. Chúa Thánh Thần chuẩn bị cho các bí tích bằng Lời Chúa và bằng đức tin đón nhận Lời Chúa nơi những tâm hồn đã chuẩn bị tốt. Lúc đó các bí tích củng cố và diễn tả đức tin.
1134. Đời sống bí tích đem lại hoa trái vừa cho cá nhân vừa cho Hội Thánh. Một đàng, đối với mọi tín hữu, hoa trái này là đời sống cho Thiên Chúa trong Chúa Giê-su Ki-tô; đàng khác, đối với Hội Thánh, hoa trái này là sự tăng trưởng trong đức mến và trong sứ vụ làm chứng của Hội Thánh.
Chú thích
24 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 6: AAS 56 (1964) 100.
25 X. CĐ Lyon II, Professio fidei Michaelis Palaeologi imperatoris : DS 860; CĐ Florentinô, Decretum pro Armenis : DS 1310; CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 7a, Canones de sacramentis in genere, canon 1: DS 1601.
26 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 7a, Decretum de sacramentis, Prooemium: DS 1600.
27 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 7a, Canones de sacramentis in genere, canon 1: DS 1601.
28 Thánh Lê-ô Cả, Sermo 74, 2: CCL 138A, 457 (PL 54,398).
29 X. Lc 5,17; 6,19; 8,46.
30 X. Mt 13,52; 1 Cr 4,1.
31 Thánh Augustinô, De civitate Dei, 22, 17: CSEL 40/2, 625 (PL 41,779); x. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 64, a. 2, ad 3: Ed. Leon. 12, 43.
32 ĐGH Pi-ô XII, Thông điệp Mystici corporis: AAS 35 (1943) 226.
33 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965) 15.
34 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965) 15.
35 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 10: AAS 57 (1965) 14.
36 X. Ga 20,21-23; Lc 24,47;Mt 28,18-20.
37 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 7a, Canones de sacramentis in genere, canon 9: DS 1609.
38 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 4: AAS 58 (1966) 995-996.
39 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum concilium, 59: AAS 56 (1964) 116.
40 Indiculus, c. 8 : DS 246 (PL 51,209).
41 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 8: AAS 58 (1966) 821.
42 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 2: AAS 57 (1965) 91-92 ; Ibid., 15: AAS 57 (1965) 101-102.
43 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 7a, Canones de sacramentis in genere, canon 5: DS 1605; Ibid., canon 6: DS 1606.
44 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 7a, Canones de sacramentis in genere, canon 8: DS 1608.
45 X. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 68, a. 8, c.: Ed. Leon. 12, 100.
46 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 4a, Canones de sacramentis in genere, canon 8: DS 1604.
47 X. 2 Pr 1,4.
48 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 60, a. 3, c.: Ed. Leon. 12,6.
CHƯƠNG II: CỬ HÀNH MẦU NHIỆM VƯỢT QUA TRONG CÁC BÍ TÍCH (1135-1209)
1135. Việc dạy giáo lý về phụng vụ đòi hỏi trước hết phải hiểu biết Nhiệm cục bí tích (Chương một). Dưới ánh sáng đó, tính chất mới mẻ của việc cử hành các bí tích được tỏ hiện. Vì vậy, chương này sẽ bàn đến việc cử hành các bí tích của Hội Thánh. Chúng ta sẽ trình bày điểm chung của việc cử hành bảy bí tích trong các truyền thống phụng vụ khác nhau; sau đó sẽ là điểm đặc thù của từng bí tích. Việc dạy giáo lý căn bản về các cử hành bí tích sẽ trả lời những câu hỏi đầu tiên mà các tín hữu đặt ra về vấn đề này:
– Ai cử hành?
– Cử hành như thế nào?
– Cử hành khi nào?
– Cử hành ở đâu?
Đề mục
Mục 1: Cử hành phụng vụ của Hội Thánh (1136-1199)
Mục 2: Nhiều phụng vụ khác nhau và một mầu nhiệm duy nhất (1200-1209)
Mục 1: Cử hành phụng vụ của Hội Thánh (1136-1199)
I. Ai cử hành? (1136-1144)
1136. 795, 1090
Phụng vụ là “hành động” của Đức Ki-tô toàn thể (Christus totus). Những ai giờ đây cử hành phụng vụ vượt quá các dấu chỉ, là những người đang ở trong phụng vụ thiên quốc, ở đó, việc cử hành hoàn toàn là hiệp thông và lễ hội.
Những người cử hành Phụng vụ thiên quốc (1137-1139) [2642]
1137. 662
Sách Khải Huyền của thánh Gio-an, được đọc trong phụng vụ của Hội Thánh, trước tiên cho chúng ta thấy một cái ngai được đặt trên trời; và Đấng ngự trên ngai:1 đó là “Chúa” (Is 6,1).2 Rồi đến “Một Con Chiên trông như thể đã bị giết” (Kh 5,6):3 đó là Đức Ki-tô bị đóng đinh và đã sống lại, là vị Thượng Tế duy nhất của cung thánh đích thực,4 chính Người “vừa là người dâng vừa là lễ vật được dâng lên, vừa là người tặng vừa là quà được hiến tặng.”5 Cuối cùng là “con sông có nước trường sinh,… chảy ra từ ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên” (Kh 22,1), đó là một trong những biểu tượng đẹp nhất về Chúa Thánh Thần.6
1138. 335, 1370
“Những ai được quy tụ” trong Đức Ki-tô tham dự vào việc phục vụ là ca ngợi Thiên Chúa và việc chu toàn kế hoạch của Ngài là: các Quyền thần trên trời,7 toàn thể thụ tạo (tượng trưng bằng bốn Con vật), các thừa tác viên thời Cựu và Tân Ước (24 Kỳ mục), dân mới của Thiên Chúa (144 ngàn người),8 đặc biệt là các vị tử đạo “những người đã bị giết vì đã rao giảng lời Thiên Chúa” (Kh 6,9), và Mẹ chí thánh của Thiên Chúa (Người Phụ nữ;9 Hiền thê của Con Chiên10), cuối cùng là “một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước, và mọi ngôn ngữ” (Kh 7,9).
1139. Chúa Thánh Thần và Hội Thánh cho chúng ta được tham dự vào Phụng vụ vĩnh cửu này, khi chúng ta cử hành mầu nhiệm cứu độ trong các bí tích.
Những người cử hành phụng vụ bí tích (1140-1144)
1140. 752, 1348, 1372
Toàn thể Cộng đoàn, Thân Thể của Đức Ki-tô kết hợp với Đầu của mình, cử hành phụng vụ. “Các hoạt động phụng vụ không phải là những hoạt động riêng tư, nhưng là những cử hành của Hội Thánh, là ‘bí tích của sự hợp nhất’, nghĩa là dân thánh được quy tụ và điều hành dưới quyền các Giám mục. Vì vậy, các cử hành đó thuộc về thân thể phổ quát của Hội Thánh, chúng làm tỏ hiện và ảnh hưởng đến toàn thân thể; tuy nhiên, các cử hành đó cũng liên quan đến từng chi thể theo những cách khác nhau, tùy theo sự khác biệt về phẩm trật, phận vụ và sự tham dự hiện thực.”11 Vì vậy, “mỗi khi các nghi thức, theo bản chất riêng của từng nghi thức, được cử hành chung, với sự tham dự đông đảo và tích cực của các tín hữu, thì phải nhấn mạnh rằng việc cử hành chung như vậy, bao nhiêu có thể, phải được quý chuộng hơn việc cử hành các nghi thức đó một cách đơn độc và có vẻ riêng tư.”12
1141. 1120, 1268
Cộng đoàn cử hành phụng vụ là cộng đoàn của những người đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội, “nhờ sự tái sinh và sự xức dầu bằng Chúa Thánh Thần, họ được thánh hiến để trở thành ngôi nhà thiêng liêng và hàng tư tế thánh, để dâng lên những của lễ thiêng liêng qua tất cả các công việc của Ki-tô hữu.”13 “Chức tư tế cộng đồng” này là chức tư tế của Đức Ki-tô, vị Tư Tế duy nhất, mà tất cả các chi thể của Người đều được tham dự vào:14
“Mẹ Hội Thánh tha thiết ước mong mọi tín hữu đều được hướng dẫn tham dự các việc cử hành phụng vụ cách đầy đủ, ý thức và tích cực. Việc tham dự như vậy do chính bản chất phụng vụ đòi hỏi, và dân Ki-tô Giáo, ‘là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa’ (1 Pr 2,9),15 do bí tích Rửa Tội, có quyền lợi và nhiệm vụ trong việc tham dự như vậy.”16
1142. 1549, 1561
“Nhưng mọi chi thể không có cùng một chức năng” (Rm 12,4). Một số chi thể đã được Thiên Chúa kêu gọi, trong và qua Hội Thánh, để đặc biệt phục vụ cộng đoàn. Những thừa tác viên này được tuyển chọn và được thánh hiến nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, qua đó, Chúa Thánh Thần làm cho họ có khả năng hành động trong cương vị của Đức Ki-tô là Đầu (in persona Christi- Capitis) để phục vụ mọi chi thể của Hội Thánh.17 Thừa tác viên có chức thánh là như “họa ảnh” của Đức Ki-tô Tư Tế. Bởi vì, trong bí tích Thánh Thể, bí tích của Hội Thánh được biểu lộ cách đầy đủ, nên thừa tác vụ Giám mục nổi bật nhất trong việc chủ sự Thánh Lễ, và hiệp thông với ngài, là thừa tác vụ linh mục và phó tế.
1143. 903, 1672
Để giúp các phận vụ của chức tư tế cộng đồng của các tín hữu, còn có những tác vụ đặc biệt khác, không được thánh hiến nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, và nhiệm vụ của những tác vụ này được các Giám mục quy định theo các truyền thống phụng vụ và các nhu cầu mục vụ. “Cả những người giúp lễ, đọc sách, dẫn giải và các ca viên, cũng thật sự đảm nhận một tác vụ phụng vụ.”18
1144. Như vậy, trong việc cử hành các bí tích, toàn thể cộng đoàn đều là “người cử hành phụng vụ”, mỗi người tùy theo phận vụ của mình, nhưng “trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần”, Đấng hoạt động trong mọi người. “Trong các cử hành phụng vụ, thừa tác viên hay tín hữu, mỗi người theo phận vụ của mình, chỉ làm và làm trọn vẹn những gì thuộc phận vụ của mình theo bản chất của sự việc và các quy tắc phụng vụ.”19
II. Cử hành thế nào? (1145-1162)
Các dấu chỉ và biểu tượng (1145-1152) [1333-1340]
1145. 53
Việc cử hành bí tích được dệt bằng các dấu chỉ và các biểu tượng. Theo đường lối sư phạm của Thiên Chúa trong việc cứu độ, ý nghĩa của các dấu chỉ và các biểu tượng được bén rễ trong công trình tạo dựng và trong văn hóa nhân loại, được xác định trong các biến cố của Giao Ước cũ, và được bày tỏ cách đầy đủ trong con người và công trình của Đức Ki-tô.
1146. 362, 2702, 1879
Những dấu chỉ của thế giới loài người. Trong đời sống con người, các dấu chỉ và các biểu tượng chiếm một vị trí quan trọng. Con người, một hữu thể vừa thể xác vừa tinh thần, diễn tả và cảm nhận các thực tại tinh thần nhờ các dấu chỉ và các biểu tượng vật chất. Với tính cách là một hữu thể có tính xã hội, con người cần các dấu chỉ và các biểu tượng để giao tiếp với tha nhân nhờ ngôn ngữ, các cử chỉ, các hành động. Về tương quan của con người với Thiên Chúa cũng thế.
1147. 299
Thiên Chúa nói với con người qua thụ tạo hữu hình. Vũ trụ vật chất được phô diễn trước trí tuệ con người, để họ đọc được nơi vũ trụ các dấu vết của Đấng Tạo hóa của họ.20 Ánh sáng và đêm tối, gió và lửa, nước và đất, cây cối và hoa trái đều nói về Thiên Chúa; chúng nói lên một cách biểu tượng cả sự cao cả lẫn sự gần gũi của Ngài.
1148. Vì được Thiên Chúa tạo dựng, những thực tại khả giác này có thể trở thành phương tiện diễn tả hành động của Thiên Chúa, Đấng thánh hóa loài người, và diễn tả hành động của con người, những kẻ phụng thờ Thiên Chúa. Về các dấu chỉ và biểu tượng trong đời sống xã hội của con người cũng vậy: tắm rửa và xức dầu, bẻ bánh và chia sẻ một chén có thể diễn tả sự hiện diện tác thánh của Thiên Chúa và lòng tri ân của con người đối với Đấng Tạo hóa của mình.
1149. 843
Các tôn giáo lớn của nhân loại cho thấy rõ, một cách thường rất ấn tượng, ý nghĩa về vũ trụ và về các biểu tượng của các nghi thức tôn giáo. Phụng vụ của Hội Thánh đón nhận, hội nhập và thánh hóa các yếu tố của công trình tạo dựng và của văn hóa nhân loại, khi mang lại cho chúng phẩm tính là trở thành những dấu chỉ của ân sủng, của công cuộc tạo dựng mới trong Chúa Giê-su Ki-tô.
1150. 1334
Những dấu chỉ của Giao Ước. Dân Chúa chọn lãnh nhận từ Thiên Chúa những dấu chỉ và những biểu tượng đặc biệt phân biệt đời sống phụng vụ của họ: đây không chỉ là những cử hành long trọng các chu kỳ vũ trụ và các cử chỉ xã hội, nhưng còn là những dấu chỉ của Giao Ước, những biểu tượng của các kỳ công của Thiên Chúa đối với dân Ngài. Trong số các dấu chỉ phụng vụ này của Giao Ước cũ, có thể kể việc cắt bì, việc xức dầu và việc thánh hiến các vua và các tư tế, việc đặt tay, các hy lễ, và nhất là lễ Vượt Qua. Hội Thánh coi các dấu chỉ đó như hình ảnh tiên báo các bí tích của Giao Ước mới.
1151. 1335
Những dấu chỉ được Đức Ki-tô sử dụng. Khi giảng dạy, Chúa Giê-su thường sử dụng những dấu chỉ của công trình tạo dựng để giúp nhận biết các mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa.21 Người chữa lành và minh họa lời giảng dạy của Người bằng những dấu chỉ vật chất hay những cử chỉ có tính biểu trưng.22 Người ban một ý nghĩa mới cho các sự kiện và các dấu chỉ của Giao Ước cũ, nhất là cho cuộc Xuất Hành và lễ Vượt Qua,23 bởi vì chính Người là ý nghĩa của tất cả các dấu chỉ đó.
1152. Các dấu chỉ bí tích. Từ sau Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần thực hiện việc thánh hóa qua các dấu chỉ bí tích của Hội Thánh của Ngài. Các bí tích của Hội Thánh không xóa bỏ, nhưng thanh luyện, đón nhận tất cả sự phong phú của các dấu chỉ và các biểu tượng của thế giới vật chất và đời sống xã hội. Hơn nữa, các bí tích còn hoàn tất những tiên trưng và hình bóng của Giao Ước cũ, biểu thị và thực hiện ơn cứu độ do Đức Ki-tô mang lại, và cho thấy trước cũng như cho nếm trước vinh quang thiên quốc.
Các lời nói và các hành động (1153-1155)
1153. 53
Việc cử hành bí tích là cuộc gặp gỡ của các con cái Thiên Chúa với Cha mình, trong Đức Ki-tô và Chúa Thánh Thần, và cuộc gặp gỡ này diễn ra như một cuộc đối thoại, qua các hành động và các lời nói. Tuy các hành động biểu tượng chính là một thứ ngôn ngữ, nhưng cần có Lời Chúa và lời đáp lại của đức tin đi kèm theo và làm sống động các hành động ấy, để hạt giống của Nước Chúa mang lại hoa trái nơi thửa đất tốt. Các hành động phụng vụ nói lên điều Lời Chúa diễn tả: đó là sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa, đồng thời là lời đáp lại của đức tin của dân Ngài.
1154. 1100, 103
Phụng vụ Lời Chúa là phần không thể thiếu trong các cử hành bí tích. Để nuôi dưỡng đức tin của các tín hữu, các dấu chỉ của Lời Chúa phải được đề cao: Sách Lời Chúa (sách Bài Đọc hay sách Tin Mừng), việc tôn kính Lời Chúa (rước kiệu, xông hương, ánh sáng), vị trí công bố Lời Chúa (giảng đài), việc tuyên đọc Lời Chúa cho dễ nghe dễ hiểu, bài giảng của thừa tác viên làm sáng tỏ Lời Chúa vừa được công bố, những lời đáp lại của cộng đoàn (những lời tung hô, các Thánh vịnh để suy niệm, các kinh cầu, việc tuyên xưng đức tin).
1155. 1127
Lời phụng vụ và hành động phụng vụ, không thể tách biệt nhau xét như những dấu chỉ và giáo huấn, cũng không thể tách biệt nhau xét như cả hai thực hiện điều chúng biểu thị. Chúa Thánh Thần không những giúp hiểu được Lời Chúa qua việc khơi dậy đức tin, chính Ngài còn thực hiện, qua các bí tích, “những kỳ công” của Thiên Chúa đã được Lời Chúa loan báo: Ngài làm cho hiện diện và truyền thông công trình của Chúa Cha đã được Con yêu dấu thực hiện.
Bài ca và âm nhạc (1156-1158)
1156. “Truyền thống âm nhạc của Hội Thánh phổ quát đã tạo nên một kho tàng vô giá, vượt trên các hình thức nghệ thuật khác, nhất là vì thánh ca gắn liền với các lời nói, nên đã trở thành một phần cần thiết hoặc không thể thiếu của phụng vụ trọng thể.”24 Việc sáng tác và ca hát các Thánh vịnh được linh hứng, thường có các nhạc cụ phụ họa, đã gắn chặt với các cử hành phụng vụ của Cựu Ước. Hội Thánh tiếp tục và phát huy truyền thống này: “Hãy cùng nhau đối đáp những bài Thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” (Ep 5,19).25 “Hát là cầu nguyện hai lần.”26
1157. 2502
Bài ca và âm nhạc chu toàn chức năng làm dấu chỉ của mình một cách có ý nghĩa hơn, “khi chúng liên kết chặt chẽ hơn với hành động phụng vụ”,27 theo ba tiêu chuẩn chính sau đây: vẻ đẹp diễn cảm của lời cầu nguyện, sự đồng thanh tham dự của cộng đoàn vào những lúc đã được quy định, và tính cách long trọng của cuộc cử hành. Như vậy, bài ca và âm nhạc dự phần vào mục đích của các lời nói và các hành động phụng vụ: đó là làm vinh danh Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu:28
“Bao lần con đã rơi lệ khi nghe các thánh thi, thánh ca của Chúa, những âm thanh dịu dàng vang lên trong thánh đường của Chúa, con đã xúc động biết bao! Các âm thanh đó rót vào tai con, và chân lý được tinh luyện trong trái tim con, từ đó niềm hưng phấn đạo đức sục sôi lên và nước mắt tuôn tràn, những điều đó làm cho con hạnh phúc.”29
1158. 1201, 1674
Sự hòa hợp của các dấu chỉ (ca hát, âm nhạc, lời nói và hành động) sẽ càng có ý nghĩa hơn và mang nhiều hoa trái hơn nếu càng được diễn tả trong sự phong phú về văn hóa đặc thù của dân Thiên Chúa đang cử hành.30 Vì vậy, “những bài thánh ca mang tính dân tộc phải được cổ võ cách khéo léo, để giọng các tín hữu có thể vang lên trong những buổi thực hành đạo đức và linh thánh và trong chính các hành động phụng vụ” theo các quy tắc của Hội Thánh.31 Tuy nhiên, “lời ca trong các bài thánh ca phải phù hợp với giáo lý Công giáo và tốt nhất là nên được rút ra từ Thánh Kinh và từ các nguồn mạch phụng vụ.”32
Bài này đã được xem 5678 lần!