Các ảnh tượng thánh (1159-1162) [476-477; 2129-2132]
1159. Ảnh tượng thánh, ảnh tượng phụng vụ, chủ yếu trình bày Đức Ki-tô. Ảnh tượng không thể trình bày Thiên Chúa vô hình và khôn tả; việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa đã mở đầu một “nhiệm cục” mới của các ảnh tượng:
“Xưa kia Thiên Chúa, Đấng không có thân xác và diện mạo, không bao giờ được trình bày bằng ảnh tượng. Nhưng nay, sau khi Người đã tự trở nên hữu hình trong xác phàm và sống giữa loài người, tôi có thể họa một hình ảnh về điều tôi thấy nơi Thiên Chúa… Vậy sau khi dung nhan được mặc khải, chúng ta chiêm ngắm vinh quang của Chúa.”33
1160. Nghệ thuật ảnh tượng Ki-tô Giáo dùng hình ảnh để truyền đạt sứ điệp Tin Mừng, sứ điệp mà Sách Thánh lưu truyền bằng lời. Hình ảnh và lời nói làm sáng tỏ lẫn nhau:
“Chúng tôi tuyên bố cách vắn tắt rằng, chúng tôi gìn giữ nguyên vẹn mọi truyền thống hoặc thành văn, hoặc bất thành văn của Hội Thánh, đã được ký thác cho chúng tôi. Một trong những truyền thống này là việc sử dụng ảnh tượng, vốn phù hợp với việc rao giảng lịch sử Tin Mừng. Việc sử dụng ảnh tượng góp phần nói lên sự chắc chắn xác thực, chứ không phải chỉ là dáng vẻ, của việc Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, và góp phần mang lại lợi ích cho chúng tôi. Những gì soi sáng cho nhau, thì chắc chắn có những ý nghĩa hỗ tương.”34
1161. Tất cả các dấu chỉ của việc cử hành phụng vụ đều quy hướng về Đức Ki-tô: kể cả các ảnh tượng của Mẹ Thiên Chúa và của các thánh. Thật vậy, các ảnh tượng này nói về Đức Ki-tô, Đấng được tôn vinh nơi các ngài. Các ảnh tượng này cho thấy “ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh” (Dt 12,1), các ngài đang tiếp tục tham dự vào công trình cứu độ trần gian và chúng ta được liên kết với các ngài, nhất là khi cử hành các bí tích. Qua ảnh tượng của các ngài, điều được mặc khải cho đức tin của chúng ta là, con người, được tạo dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa”, cuối cùng được biến hình nên “giống như Thiên Chúa”,35 và cả các Thiên thần, là những vị đã được quy tụ lại trong Đức Ki-tô:
“Theo giáo huấn của các Thánh Giáo phụ được Thiên Chúa linh hứng, và theo truyền thống của Hội Thánh Công giáo (mà chúng ta biết rằng đó là truyền thống của Chúa Thánh Thần, Đấng chắc chắn đang ngự trong Hội Thánh), chúng tôi ấn định với tất cả sự chắc chắn và chính đáng rằng, cũng như hình tượng cây Thánh Giá quý trọng và ban sự sống, các ảnh tượng đáng kính và thánh thiện, hoặc được vẽ và lắp ghép, hoặc bằng những chất liệu thích hợp khác, phải được đặt trong các thánh đường của Thiên Chúa, trên các bình thánh và y phục thánh, trên các bức tường và các bức họa, trong nhà và trên các đường phố: đó là ảnh tượng của Chúa Giê-su Ki-tô, là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta, cũng như ảnh tượng của Đức Bà tinh tuyền, là Mẹ thánh của Thiên Chúa, ảnh tượng của các Thiên thần đáng kính, của tất cả các Thánh và những người công chính.”36
1162. 2502
“Vẻ đẹp và màu sắc của các ảnh tượng kích thích việc cầu nguyện của tôi. Đó là một bữa tiệc làm no thỏa mắt tôi, cũng như quang cảnh đồng quê kích thích trái tim tôi ca tụng Thiên Chúa.”37 Việc chiêm ngắm các ảnh tượng thánh, cùng với việc suy niệm Lời Chúa và việc ca hát các thánh thi phụng vụ, sẽ tạo nên một sự hòa hợp các dấu chỉ trong cuộc cử hành, làm cho mầu nhiệm được cử hành in sâu vào tâm khảm các tín hữu, rồi được biểu lộ ra trong đời sống mới của họ.
III. Cử hành khi nào? (1163-1178)
Thời gian phụng vụ (1163-1165)
1163. 512
“Hội Thánh là Mẹ hiền, ý thức mình có bổn phận cử hành công trình cứu độ của Phu Quân thần linh của mình, bằng một sự tưởng niệm thánh thiêng, vào những ngày cố định trong suốt cả năm. Mỗi tuần, vào ngày được gọi là ngày của Chúa (Chúa nhật), Hội Thánh tưởng niệm cuộc phục sinh của Chúa, điều mà mỗi năm một lần Hội Thánh còn cử hành trong đại lễ Vượt Qua, cùng với cuộc khổ hình hồng phúc của Người. Hội Thánh trình bày toàn bộ mầu nhiệm Đức Ki-tô qua chu kỳ một năm… Khi cử hành các mầu nhiệm cứu chuộc như vậy, Hội Thánh mở ra cho các tín hữu kho tàng quyền năng và công nghiệp của Chúa mình, khiến các mầu nhiệm này một cách nào đó luôn hiện diện trong mọi lúc; các tín hữu tiếp xúc với các mầu nhiệm đó, và được đầy tràn ơn cứu độ.”38
1164. Dân Thiên Chúa, theo luật Mô-sê, đã có những lễ mừng cố định khởi từ cuộc Vượt Qua để ghi nhớ những hành động kỳ diệu của Thiên Chúa Cứu độ, để tạ ơn Ngài vì những kỳ công đó, để nhớ mãi những kỳ công đó và để dạy cho các thế hệ sau sống xứng đáng với những kỳ công đó. Đến thời Hội Thánh, trong khoảng thời gian từ cuộc Vượt Qua của Đức Ki-tô, được thực hiện một lần cho mãi mãi, cho đến ngày cuộc Vượt Qua được hoàn tất trong Nước Thiên Chúa, phụng vụ được cử hành vào những ngày đã ấn định, được đóng ấn bằng tính cách mới mẻ của mầu nhiệm Đức Ki-tô.
1165. 2659-2836, 1085
Khi Hội Thánh cử hành mầu nhiệm Đức Ki-tô, có một từ luôn được nhắc đến trong kinh nguyện của Hội Thánh: đó là từ “Hôm nay”, là âm vang Lời Kinh Chúa dạy,39 và âm vang tiếng gọi của Chúa Thánh Thần.40 Ngày “hôm nay” này của Thiên Chúa hằng sống mà con người được mời gọi bước vào, chính là “Giờ” của cuộc Vượt Qua của Chúa Giê-su, Giờ đó xuyên suốt và hướng dẫn toàn bộ lịch sử:
“Sự sống được mở ra cho vạn vật và tất cả được đầy tràn ánh sáng vĩnh cửu, và Đấng là Vầng Đông của các vầng đông xâm chiếm vũ trụ: Đấng được sinh ra trước Sao Mai, bất tử và cao cả, là Đức Ki-tô chiếu soi vạn vật hơn cả mặt trời. Vì vậy, ngày bừng sáng, lâu dài, vĩnh cửu và không thể tàn lụi đã xuất hiện cho chúng ta là những kẻ tin vào Người: đó là cuộc Vượt Qua thần bí.”41
Ngày của Chúa (1166-1167) [2174-2188]
1166. 1343
“Theo truyền thống Tông Đồ bắt nguồn từ chính ngày Đức Ki-tô sống lại, Hội Thánh cử hành mầu nhiệm Vượt Qua vào mỗi ngày thứ tám, ngày thật xứng đáng được gọi là ngày của Chúa hoặc Chúa Nhật.”42 Ngày phục sinh của Đức Ki-tô vừa là “ngày thứ nhất trong tuần” gợi lại ngày đầu tiên của công trình tạo dựng, vừa là “ngày thứ tám”, trong ngày đó Đức Ki-tô, sau khi “an nghỉ” trong ngày sa-bát vĩ đại của Người, đã khởi đầu ngày “Chúa đã làm ra” (Tv 118,24), “ngày không có chiều tà.”43 “Bữa tiệc của Chúa” là trung tâm của ngày này, bởi vì trong đó, toàn thể cộng đoàn các tín hữu được gặp Chúa phục sinh, Đấng mời họ vào bàn tiệc của Người:44
“Ngày của Chúa, ngày Phục Sinh, ngày của các Ki-tô hữu, là ngày của chúng ta. Vì thế, ngày này được gọi là ngày của Chúa, bởi vì trong ngày đó Chúa, là Đấng chiến thắng, lên với Chúa Cha. Nếu người ngoại giáo gọi ngày này là ngày của mặt trời, chúng ta cũng sẵn sàng công nhận như vậy: vì hôm nay, ánh sáng của trần gian đã mọc lên, hôm nay mặt trời công chính đã xuất hiện, các tia sáng của mặt trời này mang lại ơn chữa lành.”45
1167. Ngày Chúa Nhật đặc biệt là ngày họp mặt để cử hành phụng vụ, trong đó, các tín hữu quy tụ lại “để, khi nghe Lời Chúa và tham dự bí tích Thánh Thể, họ kính nhớ cuộc khổ nạn, sự sống lại và vinh quang của Chúa Giê-su, đồng thời họ cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã tái sinh họ trong niềm hy vọng sống động, nhờ sự sống lại từ cõi chết của Chúa Giê-su Ki-tô”:46
“Lạy Đức Ki-tô, khi chúng con suy ngắm những kỳ công vinh quang và những dấu chỉ lạ lùng được thực hiện trong ngày Chúa Nhật của cuộc phục sinh thánh và vinh hiển của Chúa, chúng con thốt lên: Chúc tụng ngày của Chúa, bởi vì trong ngày này công trình tạo dựng đã được khởi đầu,… trần gian được cứu chuộc,… nhân loại được canh tân… Trong ngày này, trời đất bừng sáng lên và cả trần gian ngập tràn ánh sáng. Chúc tụng ngày của Chúa, bởi vì trong ngày này các cửa thiên đàng được mở ra để ông A-đam và mọi kẻ bị lưu đày tiến vào đó mà không sợ hãi.”47
Năm phụng vụ (1168-1171)
1168. 2698
Khởi từ Tam Nhật Vượt Qua, như từ nguồn ánh sáng của mình, thời đại mới của cuộc phục sinh tuôn đổ sự rực rỡ của nó trên suốt năm phụng vụ. Dần dần, nhờ hết phần này đến phần khác của nguồn mạch này, trọn cả năm được biến hình nhờ phụng vụ. Đó quả thật là “năm hồng ân của Chúa.”48 Nhiệm cục cứu độ hoạt động trong khung thời gian, nhưng từ khi nhiệm cục đó được hoàn tất trong cuộc Vượt Qua của Chúa Giê-su và trong việc tuôn ban Chúa Thánh Thần, thì lúc tận cùng của lịch sử đã được tiền dự như “sự nếm trước” và Nước Thiên Chúa bước vào thời gian của chúng ta.
1169. 1330, 560
Vì vậy, Lễ Phục Sinh không chỉ đơn giản là một ngày lễ giữa bao lễ khác: nó chính là “Ngày Lễ của các ngày lễ”, “Lễ Trọng của các lễ trọng”, cũng như Thánh Thể là bí tích của các bí tích (bí tích trọng đại). Thánh Athanasiô gọi lễ Phục Sinh là “Chúa Nhật vĩ đại”,49 cũng như Tuần Thánh được Giáo Hội Đông phương gọi là “Tuần Lễ vĩ đại.” Mầu nhiệm Phục Sinh, trong đó Đức Ki-tô tiêu diệt sự chết, thấm nhập vào thời gian già cỗi của chúng ta bằng sức mạnh đầy quyền năng của Người, cho đến khi mọi sự phải quy phục Người.
1170. Tại Công đồng Ni-xê-a (năm 325), tất cả các Giáo Hội đồng ý mừng lễ Phục Sinh Ki-tô Giáo vào Chúa Nhật sau ngày trăng tròn (14 tháng Nisan), sau ngày xuân phân. Vì có những phương pháp khác nhau để tính ngày 14 tháng Nisan, nên ngày mừng lễ Phục sinh trong các Giáo hội Đông phương và Tây phương đã không luôn trùng khớp với nhau. Vì vậy, ngày nay các Giáo Hội này đang tìm cách thỏa thuận để ngày đại lễ Phục sinh của Chúa lại có thể được mừng chung trong cùng một ngày.
1171. 524
Năm phụng vụ là sự triển khai những khía cạnh khác nhau của mầu nhiệm Vượt Qua duy nhất. Điều này đặc biệt đúng cho chu kỳ các lễ xoay quanh mầu nhiệm Nhập Thể (Truyền Tin, Giáng Sinh, Hiển Linh), để tưởng niệm việc khởi đầu ơn cứu độ của chúng ta và truyền thông cho chúng ta những hoa trái đầu mùa của mầu nhiệm Vượt Qua.
Việc kính các Thánh trong năm Phụng vụ (1172-1173)
1172. 971, 2030
“Trong khi cử hành các mầu nhiệm của Đức Ki-tô theo chu kỳ hằng năm, Hội Thánh tôn kính với một tình yêu đặc biệt Đức Ma-ri-a diễm phúc, Mẹ Thiên Chúa, Đấng được nối kết với Con mình trong công trình cứu độ bằng mối dây bất khả phân ly. Nơi Mẹ, Hội Thánh ngưỡng mộ và tán dương hoa trái tuyệt vời nhất của ơn cứu chuộc, và vui mừng chiêm ngắm nơi Mẹ như trong một hình ảnh rất tinh tuyền, mọi điều mà chính Hội Thánh ước mong và hy vọng trở thành.”50
1173. 957
Trong chu kỳ hằng năm, khi kính nhớ các Thánh tử đạo và các vị Thánh khác, Hội Thánh “công bố mầu nhiệm Vượt Qua” nơi các người nam và người nữ đó, là “những vị đã cùng chịu đau khổ và cùng được vinh hiển với Đức Ki-tô, và Hội Thánh trình bày cho các tín hữu những mẫu gương của các ngài, để lôi kéo tất cả đến với Chúa Cha nhờ Đức Ki-tô, và nhờ công nghiệp của các ngài, Hội Thánh nhận được những ơn lành của Thiên Chúa.”51
Các Giờ Kinh phụng vụ (1174-1178)
1174. 2698
Mầu nhiệm của Đức Ki-tô, cuộc Nhập Thể và Vượt Qua của Người, mà chúng ta cử hành trong bí tích Thánh Thể, đặc biệt nơi cộng đoàn quy tụ ngày Chúa nhật, thấm nhập và biến đổi thời gian của từng ngày nhờ việc cử hành các Giờ Kinh phụng vụ, còn gọi là kinh “Thần Vụ.”52 Trung thành với những lời khuyên của các Tông Đồ là “hãy cầu nguyện không ngừng”,53 việc cử hành này “đã được thiết lập để suốt cả ngày đêm được thánh hiến bằng việc ca ngợi Thiên Chúa.”54 Các Giờ Kinh phụng vụ là “kinh nguyện công khai của Hội Thánh”,55 trong đó các tín hữu (giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân) thực thi chức tư tế vương giả của những người đã lãnh bí tích Rửa Tội. Khi được cử hành “theo hình thức được Hội Thánh phê chuẩn”, các Giờ Kinh phụng vụ “thật sự là tiếng của chính Hiền Thê nói với Phu Quân; thậm chí còn là lời cầu nguyện của Đức Ki-tô cùng với Thân thể Người dâng lên Chúa Cha.”56
1175. Các Giờ Kinh phụng vụ phải trở thành kinh nguyện của toàn thể Dân Chúa. Trong các giờ kinh đó, chính Đức Ki-tô “tiếp tục thực thi phận vụ tư tế qua Hội Thánh của Người”;57 mỗi người, theo phận vụ riêng biệt của mình trong Hội Thánh và theo hoàn cảnh sống, đều tham dự vào các giờ kinh này: các linh mục, bởi vì, là những người chuyên lo việc mục vụ, họ được kêu gọi chuyên cần cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa;58 các tu sĩ nam nữ vì đặc sủng của đời sống thánh hiến;59 mọi tín hữu theo khả năng của mình. “Các mục tử của các linh hồn phải liệu sao để các Giờ Kinh chính yếu, nhất là giờ Kinh Chiều, các ngày Chúa nhật và lễ trọng, được cử hành chung trong nhà thờ. Khuyên các giáo dân hãy đọc Kinh Thần vụ, hoặc cùng với các linh mục, hoặc khi họ họp nhau, và kể cả đọc riêng một mình nữa.”60
1176. 2700
Việc cử hành các Giờ Kinh phụng vụ đòi hỏi không những phải hòa hợp tiếng nói với tâm hồn cầu nguyện, mà còn “phải lo cho mình có kiến thức dồi dào hơn về phụng vụ và Thánh Kinh, nhất là về các Thánh vịnh.”61
1177. 2586
Các thánh thi và kinh cầu của các Giờ Kinh phụng vụ đã đưa lời cầu nguyện của các Thánh vịnh vào thời gian của Hội Thánh, khi chúng diễn tả tính biểu tượng của thời khắc trong ngày, của thời gian phụng vụ hoặc của ngày lễ được cử hành. Hơn nữa, bài đọc Lời Chúa trong mỗi Giờ Kinh (với các câu Xướng Đáp theo sau) và, trong một số Giờ Kinh, việc đọc các tác phẩm của các Giáo phụ và các tôn sư linh đạo, cho thấy một cách sâu sắc hơn ý nghĩa của mầu nhiệm được cử hành, giúp thấu hiểu các Thánh vịnh và chuẩn bị cho việc cầu nguyện trong thinh lặng. Phương pháp Lectio divina (Đọc về Chúa), trong đó Lời Chúa được đọc, được suy niệm để trở thành lời cầu nguyện, như vậy cũng đã có gốc rễ từ việc cử hành phụng vụ.
1178. 1378
Các Giờ Kinh phụng vụ, được coi như sự nối dài của việc cử hành thánh lễ, không loại trừ, nhưng xét như một bổ sung, kêu gọi các việc đạo đức khác nhau của Dân Chúa, đặc biệt là việc thờ phượng và tôn sùng Thánh Thể.
IV. Cử hành ở đâu? (1179-1186)
1179. 586
Việc phụng tự của Giao Ước Mới “trong Thần Khí và sự thật” (Ga 4,24) không bị ràng buộc vào một nơi duy nhất. Toàn thể trái đất là thánh và được ủy thác cho con cái loài người. Khi các tín hữu được quy tụ tại một nơi, thì điều quan trọng nhất là, chính họ là “những viên đá sống động”, được gom lại để “xây nên ngôi đền thờ thiêng liêng” (1 Pr 2,5). Thân Thể của Đức Ki-tô Phục Sinh là ngôi đền thờ thiêng liêng, từ đó mạch nước hằng sống tuôn trào. Được tháp nhập vào Đức Ki-tô nhờ Chúa Thánh Thần, chính chúng ta là “đền thờ của Thiên Chúa hằng sống” (2 Cr 6,16).
1180. 2106
Khi việc thực hành tự do tôn giáo không bị ngăn cản,62 các Ki-tô hữu xây dựng những tòa nhà dành riêng cho việc phụng thờ Thiên Chúa. Những thánh đường hữu hình này không chỉ đơn giản là những nơi tụ họp, nhưng chúng cho thấy và làm tỏ hiện Hội Thánh sống động ở nơi đó, là nơi lưu ngụ của Thiên Chúa với những người đã được hòa giải và kết hợp trong Đức Ki-tô.
1181. 2691
“Nhà cầu nguyện là nơi bí tích Thánh Thể cực thánh được cử hành và cất giữ, nơi các tín hữu được quy tụ, nơi sự hiện diện của Con Thiên Chúa, Đấng Cứu độ chúng ta, được hiến dâng trên bàn thờ hy tế vì chúng ta, được tôn thờ để phù trợ và an ủi các tín hữu, nhà đó phải đẹp, phải thích hợp cho việc cầu nguyện và cho các nghi thức thánh thiêng.”63 Trong “ngôi nhà của Thiên Chúa”, sự chân thật và hài hòa của các dấu chỉ tạo nên ngôi nhà này, phải biểu lộ Đức Ki-tô đang hiện diện và hành động ở chính nơi này:64
1182. 617, 1383
Bàn thờ của Giao Ước Mới là Thập Giá của Chúa,65 từ đó tuôn trào các bí tích của mầu nhiệm Vượt Qua. Trên bàn thờ, là trung tâm của thánh đường, hy tế thập giá được hiện tại hóa dưới những dấu chỉ bí tích. Bàn thờ cũng là bàn tiệc của Chúa mà dân Thiên Chúa được mời đến tham dự.66 Trong một số phụng vụ Đông phương, bàn thờ còn là biểu tượng của ngôi mộ (Đức Ki-tô đã thật sự chết và thật sự sống lại).
1183. 1379, 2120, 1241
Nhà Tạm phải được đặt “ở nơi cao quý nhất và một cách tôn kính nhất trong các nhà thờ.”67 Sự cao quý, vị trí và sự an toàn68 của nhà tạm Thánh Thể phải tạo sự thuận lợi cho việc thờ phượng Chúa đang hiện diện thực sự trong bí tích cực thánh trên bàn thờ.
Bài này đã được xem 5622 lần!