GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

Dầu Thánh (myron), mà việc xức dầu này là dấu chỉ bí tích cho ấn tín ơn Chúa Thánh Thần, theo truyền thống được bảo quản và tôn kính tại một nơi an toàn trong cung thánh. Dầu Dự tòng và Dầu Bệnh nhân có thể được đặt chung ở đó.

1184. 1348, 103

Ghế ngồi của Giám mục (toà) hay của linh mục “phải nói lên phận vụ của vị đó là chủ tọa cộng đoàn và hướng dẫn việc cầu nguyện.”69

Giảng đài: “Phẩm giá của Lời Chúa đòi phải có một nơi thích hợp trong nhà thờ, để công bố Lời Chúa và, trong phần phụng vụ Lời Chúa, sự chú ý của các tín hữu tự nhiên hướng về đó.”70

1185. 2717

Việc quy tụ dân Thiên Chúa bắt đầu bằng bí tích Rửa Tội; nên thánh đường phải có nơi để cử hành bí tích Rửa Tội (giếng rửa tội) và giúp người ta nhớ đến các lời hứa trong bí tích Rửa Tội (nước thánh).

Việc canh tân đời sống theo bí tích Rửa Tội đòi hỏi việc thống hối. Thánh đường phải là nơi thích hợp để bày tỏ lòng thống hối và lãnh nhận ơn tha thứ, nghĩa là phải có nơi thích hợp để đón tiếp các hối nhân.

Thánh đường cũng phải là một không gian mời gọi người ta hồi tâm và cầu nguyện trong thinh lặng, điều đó kéo dài kinh nguyện cao cả là bí tích Thánh Thể và nội tâm hóa kinh nguyện cao cả đó.

1186. 1130

Sau cùng, thánh đường có một ý nghĩa cánh chung. Để tiến vào Nhà Chúa, người ta phải bước qua ngưỡng cửa, điều này là biểu tượng của việc vượt qua thế giới đầy thương tích vì tội lỗi để bước vào thế giới của đời sống mới mà mọi người được kêu gọi bước vào. Thánh đường hữu hình là biểu tượng của nhà Cha mà dân Thiên Chúa đang tiến về; nơi đó, Cha “sẽ lau sạch nước mắt họ” (Kh 21,4). Vì vậy, thánh đường còn là nhà của tất cả các con cái Thiên Chúa, luôn mở rộng và chào đón mọi người.

Tóm lược (1187-1199)

1187. Phụng vụ là công trình của Đức Ki-tô toàn thể – gồm Đầu và Thân Thể. Vị Thượng Tế của chúng ta không ngừng cử hành Phụng vụ ấy trong Phụng vụ trên trời, cùng với Mẹ Thiên Chúa, các Tông Đồ, các thánh và đông đảo những người đã được vào Nước Trời.

1188. Trong một cử hành Phụng vụ, toàn thể cộng đoàn đều là “người cử hành phụng vụ”, mỗi người theo chức năng của mình. Chức tư tế của bí tích Rửa Tội là chức tư tế của toàn Thân Thể Đức Ki-tô. Nhưng một số tín hữu được truyền chức do bí tích Truyền Chức Thánh để đại diện Đức Ki-tô như là Đầu của Thân Thể.

1189. Cử hành phụng vụ bao gồm các dấu chỉ và biểu tượng lấy từ công trình tạo dựng (ánh sáng, nước, lửa), từ đời sống con người (tắm giặt, xức dầu, bẻ bánh), và từ lịch sử cứu độ (các nghi thức Vượt Qua). Được đưa vào lãnh vực đức tin và được quyền năng Chúa Thánh Thần tác động, những yếu tố vũ trụ, những nghi thức của loài người, những cử chỉ gợi nhớ đến Chúa sẽ trở thành phương thế mang các hoạt động cứu độ và thánh hóa của Đức Ki-tô.

1190. Phụng vụ Lời Chúa là phần thiết yếu của phụng vụ. Ý nghĩa của việc cử hành được diễn tả qua Lời Chúa được công bố và qua việc đồng thuận của đức tin trong lời đáp lại.

1191. Bài ca và âm nhạc nối kết chặt chẽ với hoạt động phụng vụ. Để sử dụng tốt phải chú ý đến các điều này: “vẻ đẹp diễn cảm của lời cầu nguyện, việc tham gia cách đồng tâm nhất trí của cộng đoàn và đặc tính thánh thiêng của cuộc cử hành.”

1192. Các ảnh tượng thánh, hiện diện trong các thánh đường và trong nhà của chúng ta, có mục đích khơi dậy và nuôi dưỡng đức tin vào mầu nhiệm của Đức Ki-tô. Qua hình ảnh của Đức Ki-tô và các công trình cứu độ của Người, chúng ta tôn thờ chính Người. Qua các ảnh tượng thánh của Mẹ Thiên Chúa, của các Thiên thần và của các Thánh, chúng ta tôn kính những vị mà các ảnh tượng này biểu thị.

1193. Chúa nhật, “Ngày của Chúa”, là ngày chính yếu để cử hành bí tích Thánh Thể vì là ngày của mầu nhiệm Phục Sinh. Đó là ngày quy tụ cộng đoàn phụng vụ, ngày của gia đình Ki-tô Giáo, ngày của niềm vui và ngày nghỉ việc. Ngày Chúa nhật là “nền tảng và cốt lõi của cả năm phụng vụ.”71

1194. “Hội Thánh triển khai toàn bộ mầu nhiệm Đức Ki-tô qua chu kỳ một năm, từ mầu nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh đến Thăng Thiên, đến ngày lễ Ngũ Tuần, và cho đến việc mong đợi niềm hy vọng hồng phúc và cuộc Ngự đến của Chúa.”72

1195. Khi kính nhớ các Thánh, trước hết là Mẹ Thiên Chúa, kế đến là các Thánh Tông Đồ, các Thánh Tử đạo và các Thánh khác, vào những ngày nhất định trong năm Phụng vụ, Hội Thánh nơi trần thế biểu lộ sự hiệp thông với phụng vụ thiên quốc. Hội Thánh tôn vinh Đức Ki-tô, vì ơn cứu độ Người đã hoàn thành nơi những chi thể đã được tôn vinh của Người. Gương sáng của các ngài khích lệ Hội Thánh trên đường về với Chúa Cha.

1196. Các tín hữu cử hành các Giờ Kinh phụng vụ, được kết hợp với Đức Ki-tô, vị Thượng Tế của chúng ta, qua lời cầu nguyện các Thánh vịnh, suy niệm Lời Chúa, các bài thánh ca và những lời chúc tụng. Nhờ đó, họ được liên kết với lời nguyện liên lỉ và phổ quát của Đức Ki-tô mà tôn vinh Chúa Cha và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần xuống trên khắp trần gian.

1197. Đức Ki-tô là Đền Thờ đích thực của Thiên Chúa, là “nơi vinh quang của Chúa Cha ngự trị.” Nhờ ân sủng của Thiên Chúa, các tín hữu cũng trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần, nên những viên đá sống động xây nên Hội Thánh.

1198. Trong tình trạng tại thế, Hội Thánh cần có những nơi để cộng đoàn tập họp: các thánh đường hữu hình của chúng ta là những nơi thánh, là hình ảnh của Thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, nơi chúng ta là những lữ khách đang tiến về.

1199. Chính trong những thánh đường này, Hội Thánh cử hành việc thờ phượng công khai để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi, lắng nghe Lời Chúa, ca hát những lời chúc tụng, dâng lên lời cầu nguyện của mình và dâng hy tế của Đức Ki-tô, Đấng hiện diện cách bí tích giữa cộng đoàn. Những thánh đường này còn là nơi giúp tín hữu hồi tâm và cầu nguyện riêng.


Chú thích

1 X. Kh 4,2.

2 X. Ed 1,26-28.

3 X. Ga 1,29.

4 X. Dt 4,14-15; 10,19-21; etc.

5 Liturgia Byzantina. Anaphora Iohannis Chrysostomi: F.E. Brightman, Liturgies Eastern and Western (Oxford 1896) 378 (PG 63,913).

6 X. Ga 4,10-14; Kh 21,6.

7 X. Kh 4-5; Is 6,2-3.

8 X. Kh 7,1-8; 14,1.

9 X. Kh 12.

10 X. Kh 21,9.

11 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 26: AAS 56 (1964) 107.

12 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 27: AAS 56 (1964) 107.

13 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 10: AAS 57 (1965) 14.

14 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 10: AAS 57 (1965) 14; Ibid., 34: AAS 57 (1965) 40; Id., Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 2: AAS 58 (1966) 991-992.

15 X. 1 Pr 2,4-5.

16 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 14: AAS 56 (1964) 104.

17 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 2: AAS 58 (1966) 992; Ibid., 15: AAS 58 (1966) 1014.

18 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 29: AAS 56 (1964) 107.

19 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 28: AAS 56 (1964) 107.

20 X. Kn 13,1; Rm 1,19-20; Cv 14,17.

21 X. Lc 8,10.

22 X. Ga 9,6; Mc 7,33-35; 8,22-25.

23 X. Lc 9,31; 22,7-20.

24 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 112: AAS 56 (1964) 128.

25 X. Cl 3,16-17.

26 X. Thánh Augustinô, Enarratio in Psalmum 72, 1: CCL 39,986 (PL 36,914).

27 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 112: AAS 56 (1964) 128.

28 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 112: AAS 56 (1964) 128.

29 Thánh Augustinô, Confessiones, 9, 6, 14: CCL 27,141 (PL 32,769-770).

30 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 119: AAS 56 (1964) 129-130.

31 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 118: AAS 56 (1964) 129.

32 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 121: AAS 56 (1964) 130.

33 Thánh Gio-an thành Đa-mát, De sacris imaginibus oratio, 1, 16: PTS 17,89 et 92 (PG 94,1245 et 1248).

34 CĐ Ni-xê-a II (năm 787), Terminus: COD 135.

35 X. Rm 8,29; 1 Ga 3,2.

36 CĐ Ni-xê-a II, Definitio de sacris imaginibus: DS 600.

37 Thánh Gio-an thành Đa-mát, De sacris imaginibus oratio, 1, 47: PTS 17,151 (PG 94,1268).

38 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 102: AAS 56 (1964) 125.

39 X. Mt 6,11.

40 X. Dt 3,7-4,11; Tv 95,8.

41 Pseuđô-Hippôlytô Roma, In sanctum Pascha, 1, 1-2: Studia patristica mediolanensia 15,230-232 (PG 59,755).

42 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 106: AAS 56 (1964) 126.

43 X. Matutinum in die Paschatis ritus Byzantini, Oda 9, tropariumPentekostarion (Romae 1884) 11.

44 X. Ga 21,12; Lc 24,30.

45 Thánh Hiêrônimô, In die Dominica Paschae homilia: CCL 78,550 (PL 30,218-219).

46 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 106: AAS 56 (1964) 126.

47 Fanqýth, Breviarium iuxta ritum Ecclesiae Antiochenae Syrorum, v. 6 (Mossul 1886) 193b.

48 X. Lc 4,19.

49 Thánh A-tha-na-si-ô thành A-lê-xan-ri-a, Epistula festivalis, 1 (năm 329), 10: PG 26,1366.

50 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 103: AAS 56 (1964) 125.

51 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 104: AAS 56 (1964) 126; x. Ibid., 108: AAS 56 (1964) 126; Ibid., 111: AAS 56 (1964) 127.

52 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, IV, 83-101: AAS 56 (1964) 121-125.

53 X. 1 Tx 5,15; Ep 6,l8.

54 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 84: AAS 56 (1964) 121.

55 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 98: AAS 56 (1964) 124.

56 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 84: AAS 56 (1964) 121.

57 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 83: AAS 56 (1964) 121.

58 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 86: AAS 56 (1964) 121; Ibid., 96: AAS 56 (1964) 123; Id., Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 5: AAS 58 (1966) 998.

59 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 98: AAS 56 (1964) 124.

60 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 100: AAS 56 (1964) 124.

61 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 90: AAS 56 (1964) 122.

62 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Dignitatis humanae, 4: AAS 58 (1966) 932-933.

63 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 5: AAS 58 (1966) 998; x. Id., Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 122-127: AAS 56 (1964) 130-132.

64 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 7: AAS 56 (1964) 100-101.

65 X. Dt 13,10.

66 X. Quy chế tổng quát Sách Lễ Rô-ma, 259: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 75.

67 ĐGH Phao-lô VI, Thông điệp Mysterium fidei: AAS 57 (1965) 771.

68 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 128: AAS 56 (1964) 132.

69 Quy chế tổng quát Sách Lễ Rô-ma, 271: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 77.

70 Quy chế tổng quát Sách Lễ Rô-ma, 272: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 77.

71 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 106: AAS 56 (1964) 126.

72 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 102: AAS 56 (1964) 125.

 

Mục 2: Nhiều phụng vụ khác nhau và một mầu nhiệm duy nhất (1200-1209)

Các truyền thống phụng vụ và tính công giáo của Hội Thánh (1200-1203)

1200. 2625

Từ cộng đoàn tiên khởi ở Giê-ru-sa-lem cho đến ngày Đức Ki-tô ngự đến, các Giáo Hội của Thiên Chúa, trung thành với đức tin tông truyền, đều cử hành ở mọi nơi cùng một mầu nhiệm Vượt Qua. Mầu nhiệm được cử hành trong phụng vụ, chỉ là một, nhưng những hình thức của việc cử hành mầu nhiệm đó thì khác nhau.

1201. 2663, 1158

Mầu nhiệm Đức Ki-tô phong phú khôn lường đến nỗi không một truyền thống phụng vụ nào có thể diễn tả trọn vẹn được. Lịch sử hình thành và phát triển các nghi lễ này cho thấy chúng bổ túc cho nhau một cách kỳ diệu. Khi các Giáo Hội sống những truyền thống phụng vụ này trong sự hiệp thông đức tin và hiệp thông các bí tích của đức tin, các Giáo Hội đó đã làm phong phú cho nhau và lớn lên trong sự trung thành với Thánh Truyền và với sứ vụ chung của toàn thể Hội Thánh.73

1202. 814, 1674, 835, 1937

Các truyền thống phụng vụ khác nhau đã được khai sinh vì chính sứ vụ của Hội Thánh. Các Giáo Hội trong cùng một khu vực địa dư và văn hóa đã cử hành mầu nhiệm Đức Ki-tô bằng những cách diễn tả đặc biệt, đặc trưng về văn hóa: trong việc lưu truyền “kho tàng Đức Tin”,74 trong các biểu tượng phụng vụ, trong việc tổ chức hiệp thông huynh đệ, trong sự hiểu biết thần học về các mầu nhiệm và trong các điển hình của sự thánh thiện. Như vậy, nhờ đời sống phụng vụ của từng Giáo Hội, Đức Ki-tô, Đấng là Ánh Sáng và Ơn Cứu Độ cho muôn dân, được biểu lộ cho dân tộc và nền văn hóa mà Hội Thánh được sai đến và đã bén rễ vào đó. Hội Thánh có đặc tính công giáo: Hội Thánh có thể hội nhập vào sự duy nhất của mình tất cả những sự phong phú đích thực của các nền văn hóa, sau khi đã thanh tẩy chúng.75

1203. Các truyền thống phụng vụ, hoặc các nghi lễ, ngày nay đang được sử dụng trong Hội Thánh là nghi lễ La-tinh (chủ yếu là nghi lễ Rô-ma, nhưng cũng có các nghi lễ của một số Giáo Hội địa phương như nghi lễ thánh Ambrôsiô, hoặc nghi lễ của một số dòng tu), và các nghi lễ Byzantinô, Alexandrinô hoặc Copticô, Syriacô, Armêniô, Marônita và Chalđêô. “Trung thành vâng theo truyền thống, thánh Công đồng tuyên bố rằng Mẹ Hội Thánh coi tất cả các nghi lễ đã được chính thức công nhận đều bình đẳng trên pháp lý và được tôn trọng như nhau, lại muốn các nghi lễ ấy được duy trì trong tương lai và được cổ võ bằng mọi cách.”76

Phụng vụ và các nền văn hóa (1204-1206)

1204. 2684, 854, 1232, 2527

Vì vậy, việc cử hành phụng vụ phải phù hợp với tinh thần và văn hóa của các dân tộc khác nhau.77 Để mầu nhiệm của Đức Ki-tô được loan báo “cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa” (Rm 16,26), thì mầu nhiệm đó phải được loan báo, cử hành và sống trong tất cả các nền văn hóa, sao cho mầu nhiệm Đức Ki-tô không xóa bỏ, nhưng cứu chuộc và kiện toàn các nền văn hóa đó.78 Đông đảo các con cái Thiên Chúa cùng với nền văn hóa nhân loại riêng của họ và nhờ nền văn hóa đó, một nền văn hóa đã được Đức Ki-tô đón nhận và biến đổi, đã đến với Chúa Cha, để tôn vinh Ngài trong một Thần Khí duy nhất.

1205. 1125

“Phải lưu ý rằng trong phụng vụ, nhất là trong phụng vụ các bí tích, có một phần bất biến, vì do Chúa thiết lập, mà Hội Thánh là người canh giữ, và những phần có thể thay đổi, mà Hội Thánh có quyền, và đôi khi có bổn phận thích nghi với các nền văn hóa của các dân tộc mới đón nhận Tin Mừng.”79

1206. “Sự đa dạng của phụng vụ có thể là nguồn mạch của sự phong phú, nhưng cũng có thể gây ra những căng thẳng, những hiểu lầm lẫn nhau và thậm chí những vụ ly giáo. Trong lãnh vực này, hiển nhiên là sự đa dạng không được làm tổn thương sự hợp nhất, và sự đa dạng đó chỉ có thể được diễn tả nhờ lòng trung thành đối với đức tin chung, đối với các dấu chỉ bí tích mà Hội Thánh đã nhận từ Đức Ki-tô, và đối với sự hiệp thông phẩm trật. Sự thích nghi với các nền văn hóa đòi phải hối cải nội tâm, và nếu cần, phải đoạn tuyệt với những thói quen lâu đời không phù hợp với đức tin Công giáo.”80

Tóm lược (1207-1209)

1207. Việc cử hành phụng vụ nên được diễn tả trong nền văn hóa của dân mà Hội Thánh đang hiện diện, nhưng không được lệ thuộc vào đó. Mặt khác, phụng vụ cũng có vai trò khai sinh và đào tạo các nền văn hóa.

1208. Các truyền thống phụng vụ khác nhau, hay các nghi lễ, được chính thức công nhận, vì chúng biểu thị và thông hiệp cùng một mầu nhiệm của Đức Ki-tô, biểu lộ tính công giáo của Hội Thánh.

1209. Tiêu chuẩn bảo đảm cho sự duy nhất giữa sự đa dạng của các truyền thống phụng vụ, là sự trung thành với truyền thống Tông Đồ, nghĩa là: hiệp thông trong đức tin và các bí tích do các Tông Đồ truyền lại, sự hiệp thông này được biểu thị và bảo đảm nhờ việc kế nhiệm Tông Đồ.


Chú thích

73 X. ĐGH Phao-lô VI, Tông huấn Evangelii nuntiandi, 63-64: AAS 68 (1976) 53-55.

74 X. 2 Tm 1,14.

75 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 23: AAS 57 (1965) 28-29; Id., Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 4: AAS 57 (1964) 95.

76 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 4: AAS 56 (1964) 98.

77 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 37-40: AAS 56 (1964) 110-111.

78 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Catechesi tradendae, 53: AAS 71 (1979) 1319-1321.

79 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông thư Vicesimus quintus annus, 16: AAS 81 (1989) 912-913; x. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 21: AAS 56 (1964) 105-106.

80 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông thư Vicesimus quintus annus, 16: AAS 81 (1989) 913.

 

ĐOẠN THỨ HAI: BẢY BÍ TÍCH CỦA HỘI THÁNH (1210-1690)

1210. 1113

Các bí tích của Luật Mới được thiết lập bởi Đức Ki-tô; có bảy bí tích: Rửa Tội, Thêm Sức, Thánh Thể, Thống Hối, Xức Dầu Bệnh Nhân, Truyền Chức Thánh và Hôn Phối. Bảy bí tích này liên quan đến tất cả các giai đoạn và thời điểm quan trọng trong đời sống Ki-tô hữu: chúng làm cho đời sống đức tin của các Ki-tô hữu được sinh ra và lớn lên, được chữa lành và được trao sứ vụ. Về điều này, có một sự tương tự nào đó giữa những giai đoạn của đời sống tự nhiên và những giai đoạn của đời sống thiêng liêng.1

1211. 1374

Theo sự tương tự đó, trước tiên, chúng ta sẽ trình bày ba bí tích khai tâm Ki-tô Giáo (Chương một), tiếp đến là các bí tích chữa lành (Chương hai), cuối cùng là các bí tích phục vụ sự hiệp thông và sứ vụ của các tín hữu (Chương ba). Thứ tự này dĩ nhiên không phải là cách duy nhất, nhưng cho thấy các bí tích hợp thành một cấu trúc trong đó mỗi bí tích đặc thù có một vị trí sinh động. Trong cấu trúc này, bí tích Thánh Thể giữ một địa vị độc đáo vì là “bí tích của các bí tích”: “Tất cả các bí tích khác đều quy hướng về bí tích Thánh Thể như về cùng đích.”2


Đề mục

CHƯƠNG I: CÁC BÍ TÍCH KHAI TÂM KI-TÔ GIÁO (1212-1419)

Mục 1: Bí tích Rửa Tội (1213-1284)

Mục 2: Bí tích Thêm Sức (1285-1321)

Mục 3: Bí tích Thánh Thể (1322-1419)

CHƯƠNG II: CÁC BÍ TÍCH CHỮA LÀNH (1420-1532)

Mục 4: Bí tích Thống Hối và Giao Hòa (1422-1498)

Mục 5: Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân (1499-1532)

CHƯƠNG III: CÁC BÍ TÍCH PHỤC VỤ SỰ HIỆP THÔNG (1533-1666)

Mục 6: Bí tích Truyền Chức Thánh (1536-1600)

Mục 7: Bí tích Hôn Phối (1601-1666)

CHƯƠNG IV: NHỮNG CỬ HÀNH PHỤNG VỤ KHÁC (1667-1690)

Mục 1: Các á bí tích (1667-1679)

Mục 2: An táng theo nghi thức Ki-tô Giáo (1680-1690)


Chú thích

1 X. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 65, a. 1, c: Ed. Leon. 12, 56-57.

2 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 65, a. 3, c: Ed. Leon. 12, 60.

CHƯƠNG I: CÁC BÍ TÍCH KHAI TÂM KI-TÔ GIÁO (1212-1419)

1212. Ba bí tích khai tâm Ki-tô Giáo: Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể, đặt nền tảng cho toàn bộ đời sống Ki-tô hữu. “Việc tham dự vào bản tính Thiên Chúa, mà ân sủng của Đức Ki-tô ban cho con người, có một sự tương tự nào đó với đời sống tự nhiên, là được sinh ra, lớn lên và được nuôi dưỡng. Thật vậy, được tái sinh bằng bí tích Rửa Tội, các tín hữu được củng cố bằng bí tích Thêm Sức, và sau cùng được bồi bổ bằng bánh trường sinh trong bí tích Thánh Thể. Như vậy, nhờ các bí tích khai tâm Ki-tô Giáo, càng ngày họ càng được lãnh nhận những kho tàng của đời sống thần linh và tiến đến sự trọn hảo của đức mến.3


Đề mục

Mục 1: Bí tích Rửa Tội (1213-1284)

Mục 2: Bí tích Thêm Sức (1285-1321)

Mục 3: Bí tích Thánh Thể (1322-1419)


Chú thích

3 X. ĐGH Phao-lô VI, Tông hiến Divinae consortium naturae: AAS 63 (1971) 657; x. Nghi thức gia nhập Ki-tô giáo cho người lớn, Praenotanda 1-2 (Typis Polyglottis Vaticanis 1972) 7.

Mục 1: Bí tích Rửa Tội (1213-1284)

1213. Bí tích Rửa Tội là nền tảng của toàn bộ đời sống Ki-tô hữu, là cổng vào đời sống thiêng liêng, và là cửa mở ra để lãnh nhận các bí tích khác. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và được tái sinh làm con cái Thiên Chúa, được trở thành chi thể của Đức Ki-tô, được tháp nhập vào Hội Thánh và được tham dự sứ vụ của Hội Thánh:4 “Có thể định nghĩa một cách đúng đắn và thích hợp rằng bí tích Rửa Tội là bí tích tái sinh chúng ta bởi nước trong Lời Chúa.”5

I. Bí tích Rửa Tội được gọi bằng những danh xưng nào? (1214-1216)

1214. 628

Bí tích Rửa Tội được gọi theo nghi thức trung tâm mà nó được thực hiện: Rửa (tiếng Hy Lạp là Baptizein) có nghĩa là “chìm xuống”, “dìm xuống.” Việc “dìm xuống” nước tượng trưng cho việc mai táng người dự tòng vào sự chết của Đức Ki-tô, và từ đó họ bước ra nhờ được sống lại với Người,6 với tư cách là một “thụ tạo mới” (2 Cr 5,17; Gl 6,15).

1215. 1257

Bí tích này cũng được gọi là “Phép Rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới” (Tt 3,5), bởi vì bí tích này biểu lộ và thực hiện việc sinh ra bởi nước và Thánh Thần, mà nếu không có việc đó thì “không ai có thể vào Nước Thiên Chúa” (Ga 3,5).

1216. 1243

“Phép Rửa này còn được gọi là ơn soi sáng, vì những ai học biết điều này (về giáo lý) thì được soi sáng trong tâm trí.”7 Người được Rửa Tội, vì trong Phép Rửa họ được đón nhận Ngôi Lời là “ánh sáng thật chiếu soi mọi người” (Ga 1,9), nên sau khi “được soi sáng”,8 họ trở thành “con cái sự sáng”9 và chính họ là “ánh sáng” (Ep 5,8):

Bí tích Rửa Tội “là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ diệu nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa… Chúng ta gọi bí tích đó là hồng ân, ân sủng, Rửa Tội, xức dầu, soi sáng, y phục bất hoại, sự tắm rửa của ơn tái sinh, ấn tín và tất cả những gì quý giá nhất. Nó được gọi laø hồng ân, bởi vì được ban cho những người trước đó chẳng có gì; là ân sủng, bởi vì được ban cả cho những người tội lỗi; là sự dìm xuống, bởi vì tội lỗi bị chôn vùi trong nước; là xức dầu, bởi vì bí tích này là thánh thiêng và vương giả (như những người được xức dầu); là ơn soi sáng, bởi vì nó sáng ngời và chói lọi; là y phục, bởi vì nó che phủ sự xấu xa của chúng ta; là tắm rửa, bởi vì bí tích này rửa sạch; là ấn tín, bởi vì nó là sự bảo toàn và là dấu chỉ của uy quyền.”10

II. Bí tích Rửa Tội trong Nhiệm cục cứu độ (1217-1228)

Những hình ảnh trong Giao Ước cũ tiên báo bí tích Rửa Tội (1217-1222)

1217. Trong phụng vụ Canh thức Vượt Qua, khi làm phép nước rửa tội, Hội Thánh long trọng tưởng nhớ những biến cố trọng đại trong lịch sử cứu độ, những biến cố này là hình ảnh tiên báo mầu nhiệm bí tích Rửa Tội:

“Lạy Chúa, Chúa dùng quyền năng vô hình mà làm cho các bí tích trở nên hữu hiệu lạ lùng. Và qua dòng lịch sử cứu độ, Chúa đã bao lần dùng nước do chính Chúa tạo dựng, để bày tỏ hiệu năng của Phép Rửa.”11

Bài này đã được xem 5678 lần!

Pages ( 44 of 96 ): <1 ... 4243 44 4546 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]