GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

V. Ai có thể ban bí tích Rửa Tội? (1256)

1256. 1239-1240, 1752

Thừa tác viên thông thường của bí tích Rửa Tội là Giám mục, linh mục, và trong Giáo Hội La-tinh, cả phó tế nữa.52 Trong trường hợp khẩn thiết, thì bất cứ người nào, kể cả những người chưa chịu Phép Rửa, mà có ý hướng cần thiết, đều có thể cử hành Phép Rửa,53 bằng cách sử dụng công thức Rửa Tội nhân danh Chúa Ba Ngôi. Ý hướng cần thiết là muốn làm điều Hội Thánh làm khi ban Phép Rửa. Lý do của việc người ngoại giáo cũng có thể cử hành Phép Rửa như vậy, là vì Hội Thánh thấy rõ rằng Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người54 và bí tích Rửa Tội là cần thiết để được cứu độ.55

VI. Sự cần thiết của bí tích Rửa Tội (1257-1261)

1257. 1129, 161, 846

Chính Chúa khẳng định rằng bí tích Rửa Tội là cần thiết để được cứu độ.56 Vì vậy, Người đã truyền lệnh cho các môn đệ Người rao giảng Tin Mừng và làm Phép Rửa cho muôn dân.57 Bí tích Rửa Tội cần thiết cho ơn cứu độ đối với những người đã được loan báo Tin Mừng và có khả năng xin lãnh nhận bí tích này.58 Ngoài bí tích Rửa Tội, Hội Thánh không biết đến một phương thế nào khác để bảo đảm cho người ta được vào vinh phúc vĩnh cửu; vì vậy, Hội Thánh không xao lãng sứ vụ mình đã lãnh nhận từ nơi Chúa là phải làm cho tất cả những người có thể lãnh bí tích này được sinh ra “bởi nước và Chúa Thánh Thần.” Thiên Chúa đã ràng buộc ơn cứu độ với bí tích Rửa Tội, nhưng chính Ngài không bị ràng buộc bởi các bí tích của Ngài.

1258. 2473

Từ đầu, Hội Thánh luôn xác tín rằng những người chịu chết vì đức tin, mặc dầu chưa lãnh nhận bí tích Rửa Tội, thì họ đã được tẩy rửa bằng cái chết của họ vì Đức Ki-tô và với Đức Ki-tô. Được tẩy rửa bằng máu như vậy, cũng như ước muốn chịu Phép Rửa, vẫn mang lại hiệu quả của bí tích Rửa Tội, tuy đó không phải là bí tích.

1259. 1249

Đối với những người dự tòng chết trước khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, việc họ khao khát tỏ tường muốn lãnh nhận bí tích này, liên kết với việc thống hối các tội lỗi của họ và với đức mến, bảo đảm cho họ ơn cứu độ mà họ đã không thể lãnh nhận qua bí tích.

1260. 848

“Vì Đức Ki-tô đã chết cho tất cả mọi người, và vì ơn gọi tối hậu của con người thật sự là duy nhất, đó là ơn gọi bởi Thiên Chúa, nên chúng ta phải hiểu rằng, Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng được tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua, bằng cách nào đó chỉ có Chúa biết.”59 Bất kỳ ai, dù không biết Tin Mừng của Đức Ki-tô và không biết Hội Thánh của Người, nhưng tìm kiếm chân lý và thực thi ý muốn của Thiên Chúa theo như họ hiểu biết, thì có thể được cứu độ. Có thể giả thiết rằng, những người như vậy hẳn đã minh nhiên khao khát lãnh nhận bí tích Rửa Tội, nếu họ đã biết đến sự cần thiết của bí tích này.

1261. 1257, 1250

Về các trẻ em chết mà chưa được lãnh bí tích Rửa Tội, Hội Thánh chỉ biết phó dâng các em cho lòng thương xót của Thiên Chúa, như Hội Thánh đã làm trong nghi lễ an táng dành cho các em. Thật vậy, lòng thương xót cao cả của Thiên Chúa, “Đấng muốn cho mọi người được cứu độ” (1 Tm 2,4) và lòng thương mến của Chúa Giê-su đối với trẻ em khiến Người đã nói: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng” (Mc 10,14) cho phép chúng ta hy vọng rằng, có một con đường cứu độ dành cho những trẻ em chết mà chưa chịu Phép Rửa. Hội Thánh cũng hết sức khẩn thiết kêu gọi, đừng ngăn cản các trẻ em không cho chúng đến với Đức Ki-tô nhờ hồng ân của bí tích Rửa Tội.

VII. Ân sủng của bí tích Rửa Tội (1262-1274)

1262. 1234

Những hiệu quả khác nhau của bí tích Rửa Tội được nói lên qua các yếu tố khả giác của nghi thức bí tích. Việc dìm xuống nước là biểu tượng của sự chết và việc thanh tẩy, nhưng cũng là biểu tượng của sự tái sinh và sự canh tân. Vậy hai hiệu quả chính là việc thanh tẩy tội lỗi và sự tái sinh trong Chúa Thánh Thần.60

Để tha tội… (1263-1264)

1263. 977, 1425

Nhờ bí tích Rửa Tội, tất cả mọi tội lỗi đều được tha: tội tổ tông và tất cả các tội cá nhân, cũng như tất cả các hình phạt do tội.61 Thật vậy, nơi những người đã được tái sinh, không còn gì ngăn cản họ bước vào Nước Thiên Chúa, dù là tội của ông A-đam, dù là tội của bản thân, dù là những hậu quả của tội, mà hậu quả nghiêm trọng nhất là phải xa lìa Thiên Chúa.

1264. 975, 2514, 1426, 405

Tuy nhiên, một số hậu quả tạm thời của tội vẫn còn tồn tại nơi người đã chịu Phép Rửa, như đau khổ, bệnh tật, sự chết, hoặc những mỏng dòn trong cuộc sống như tính tình yếu đuối, v.v…, hoặc cả sự hướng chiều về tội mà Truyền thống gọi là dục vọng (concupiscentia) hay nói cách ẩn dụ là bùi nhùi nhóm lửa của tội (fomes peccati): “Dục vọng, được để lại để chúng ta chiến đấu, không có khả năng làm hại những ai không chiều theo nó mà còn mạnh mẽ chống lại nó nhờ ân sủng của Đức Ki-tô Giê-su. Hơn nữa, “không đoạt giải nếu không thi đấu theo luật lệ” (2 Tm 2,5).62

“Thụ tạo mới” (1265-1266)

1265. 505, 460

Bí tích Rửa Tội không những rửa sạch mọi tội lỗi, mà còn làm cho người tân tòng trở nên “một thụ tạo mới”,63 thành nghĩa tử của Thiên Chúa,64 “được thông phần bản tính Thiên Chúa”,65 thành chi thể của Đức Ki-tô66 và đồng thừa tự với Người,67 và thành đền thờ Chúa Thánh Thần.68

1266. 1992, 1812, 1831, 1810

Chúa Ba Ngôi Chí Thánh ban cho người chịu Phép Rửa ơn thánh hóaơn công chính hóa:

– làm cho người đó có khả năng tin vào Thiên Chúa, trông cậy Ngài và yêu mến Ngài nhờ các nhân đức đối thần;

– làm cho người đó có khả năng sống và hành động theo sự tác động của Chúa Thánh Thần nhờ các hồng ân của Chúa Thánh Thần;

– làm cho người đó tăng trưởng trong điều thiện hảo nhờ các nhân đức luân lý.

Như vậy, toàn bộ cơ cấu của đời sống siêu nhiên của Ki-tô hữu đều bắt nguồn từ bí tích Rửa Tội.

Được tháp nhập vào Hội Thánh là Thân Thể Đức Ki-tô (1267-1270)

1267. 782

Bí tích Rửa Tội làm cho chúng ta thành chi thể của Thân Thể Đức Ki-tô. “Chúng ta là phần thân thể của nhau” (Ep 4,25). Bí tích Rửa Tội tháp nhập chúng ta vào Hội Thánh. Từ giếng rửa tội, dân duy nhất của Thiên Chúa của Giao Ước Mới được sinh ra, dân này vượt lên trên mọi ranh giới tự nhiên hoặc nhân bản về dân tộc, văn hóa, chủng tộc và giới tính: “Tất cả chúng ta đều đã chịu Phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1 Cr 12,13).

1268. 1141, 784

Những người đã chịu Phép Rửa trở nên “những viên đá sống động mà xây nên ngôi đền thờ thiêng liêng… làm hàng tư tế thánh” (1 Pr 2,5). Nhờ bí tích Rửa Tội, họ được tham dự vào chức tư tế của Đức Ki-tô, vào sứ vụ tiên tri và vương đế của Người, họ là “giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Ngài, Đấng đã gọi… [họ] ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền” (1 Pr 2,9).

Bí tích Rửa Tội cho họ tham dự vào chức tư tế cộng đồng của các tín hữu.

1269. 871

Người đã chịu Phép Rửa đã trở thành phần tử của Hội Thánh, họ không còn thuộc về mình nữa,69 nhưng thuộc về Đấng đã chết và đã sống lại vì chúng ta.70 Từ nay, họ được mời gọi để phục tùng lẫn nhau71 và phục vụ người khác72 trong sự hiệp thông của Hội Thánh, được mời gọi “vâng lời và phục tùng” các vị lãnh đạo của Hội Thánh73 với lòng kính trọng và quý mến.74 Cũng như bí tích Rửa Tội là nguồn mạch của các trách nhiệm và bổn phận, người chịu Phép Rửa cũng được hưởng các quyền lợi trong lòng Hội Thánh: được lãnh nhận các bí tích, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và được nâng đỡ bằng các trợ giúp thiêng liêng khác của Hội Thánh.75

1270. Những người đã chịu Phép Rửa, “được tái sinh làm con Thiên Chúa (nhờ bí tích Rửa Tội), có bổn phận tuyên xưng trước mặt mọi người đức tin mà họ đã lãnh nhận từ Thiên Chúa qua Hội Thánh”76 và tham dự vào hoạt động tông đồ và truyền giáo của dân Thiên Chúa.77

Mối dây bí tích của sự hợp nhất các Ki-tô hữu (1271)

1271. Bí tích Rửa Tội đặt nền tảng cho sự hiệp thông giữa tất cả các Ki-tô hữu, kể cả với những người chưa hoàn toàn hiệp thông với Hội Thánh Công giáo: “Thật vậy, những người tin vào Đức Ki-tô và đã chịu Phép Rửa đúng nghi thức, vẫn hiệp thông một cách nào đó với Hội Thánh Công giáo, tuy là sự hiệp thông không hoàn hảo… Đã được công chính hóa nhờ đức tin khi chịu Phép Rửa, những người đó đã được tháp nhập vào Đức Ki-tô, vì vậy, họ có quyền mang danh Ki-tô hữu và xứng đáng được các con cái của Hội Thánh Công giáo nhìn nhận là anh em trong Chúa.”78 “Vậy bí tích Rửa Tội là mối dây bí tích liên kết cách chặt chẽ sự hợp nhất giữa tất cả những người đã được tái sinh nhờ bí tích đó.”79

Ấn tín thiêng liêng không thể tẩy xóa… (1272-1274)

1272. Người chịu Phép Rửa, được tháp nhập vào Đức Ki-tô nhờ bí tích Rửa Tội, được nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô.80 Bí tích này ghi trên Ki-tô hữu một dấu chỉ thiêng liêng không thể tẩy xóa (ấn tín), một dấu chỉ cho thấy họ thuộc về Đức Ki-tô. Không một tội lỗi nào xóa được ấn tín này, mặc dù tội lỗi ngăn cản bí tích Rửa Tội mang lại những hiệu quả của ơn cứu độ.81 Bí tích Rửa Tội chỉ được ban một lần cho mãi mãi, nên không thể được tái ban.

1273. Được tháp nhập vào Hội Thánh nhờ bí tích Rửa Tội, các tín hữu nhận được ấn tín bí tích, ấn tín này thánh hiến họ để lo việc phụng tự Ki-tô Giáo.82 Ấn tín Phép Rửa làm cho họ có khả năng và đòi buộc họ phải phục vụ Thiên Chúa bằng việc tham dự sống động vào phụng vụ thánh của Hội Thánh và phải thực thi chức tư tế Phép Rửa của họ qua việc làm chứng bằng một đời sống thánh thiện và bằng một đức mến đầy hiệu năng.83

1274. 197, 2016

Ấn tín của Chúa84 là dấu ấn Chúa Thánh Thần ghi trên chúng ta “để chờ ngày cứu chuộc” (Ep 4,30).85 “Bí tích Rửa Tội là dấu ấn của đời sống vĩnh cửu.”86 Tín hữu nào “gìn giữ dấu ấn” cho đến cùng, nghĩa là, trung thành với những đòi buộc của bí tích Rửa Tội của mình, thì có thể chết “với dấu chỉ của đức tin”,87 với đức tin của bí tích Rửa Tội của mình, trong sự mong đợi được vinh phúc hưởng kiến Thiên Chúa – đó là sự hoàn tất đức tin – và trong niềm hy vọng sống lại.

Tóm lược (1275-1284)

1275. Việc khai tâm Ki-tô Giáo được thực hiện bằng ba bí tích: bí tích Rửa Tội khởi đầu cuộc sống mới; bí tích Thêm Sức củng cố đời sống đó; bí tích Thánh Thể nuôi dưỡng tín hữu bằng Mình và Máu Đức Ki-tô để biến đổi họ trong Người.

1276. “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20).

1277. Bí tích Rửa Tội là việc sinh ra trong đời sống mới trong Đức Ki-tô. Theo ý muốn của Chúa, bí tích Rửa Tội cần thiết cho ơn cứu độ cũng như chính Hội Thánh mà bí tích Rửa Tội tháp nhập vào.

1278. Nghi thức chính yếu của bí tích Rửa Tội là dìm người dự tòng vào trong nước hay đổ nước trên đầu họ trong khi kêu cầu danh Ba Ngôi Chí Thánh là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

1279. Hiệu quả của bí tích Rửa Tội hay ân sủng của bí tích Rửa Tội là một thực tế phong phú bao gồm: việc tha tội tổ tông và tất cả các tội cá nhân; việc sinh ra vào đời sống mới, nhờ đó con người trở thành nghĩa tử của Chúa Cha, chi thể của Đức Ki-tô và đền thờ của Chúa Thánh Thần. Người chịu Phép Rửa được tháp nhập vào Hội Thánh là Thân Thể Đức Ki-tô, và tham dự vào chức tư tế của Đức Ki-tô.

1280. Bí tích Rửa Tội ghi vào linh hồn một dấu thiêng liêng không thể tẩy xóa, gọi là “ấn tín.” Ấn tín này thánh hiến người được rửa tội cho việc phụng tự Ki-tô Giáo. Vì ấn tín này, nên bí tích Rửa Tội không thể được tái ban.88

1281. Những người chịu chết vì đức tin cũng như người dự tòng và tất cả những ai tuy không nhận biết Hội Thánh, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa dưới tác động của ơn thánh và cố gắng chu toàn thánh ý Ngài, vẫn có thể đạt được ơn cứu độ, dù chết mà chưa lãnh nhận bí tích Rửa Tội.89

1282. Từ thời rất xa xưa, bí tích Rửa Tội đã được ban cho trẻ em, vì đây là ân sủng và hồng ân của Thiên Chúa, chứ không do công trạng của con người. Các em được rửa tội trong đức tin của Hội Thánh. Việc bước vào đời sống Ki-tô hữu dẫn đến sự tự do đích thực.

1283. Về phần các trẻ em chết mà chưa được rửa tội, phụng vụ Hội Thánh mời gọi chúng ta tin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa và cầu nguyện cho các em được ơn cứu độ.

1284. Trong trường hợp khẩn thiết, mọi người đều có thể Rửa Tội, miễn là có ý làm điều Hội Thánh muốn làm và đổ nước lên đầu người lãnh nhận trong khi đọc: “Tôi rửa anh (chị) nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.”


Chú thích

4 X. CĐ Flôrentinô, Decretum pro Armenis: DS 1314; Bộ Giáo Luật, các điều 204,1.849; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 675,1.

5 Catechismus Romanus 2, 2, 5: ed. Rodríguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 179.

6 X. Rm 6,3-4; Cl 2,12.

7 Thánh Giustinô, Apologia, 1, 61: CA 1,168 (PG 6,421).

8 X. Dt 10,32.

9 X. 1 Tx 5,5.

10 Thánh Grêgôriô thành Nazien, Oratio 40, 3-4: SC 358,202-204 (PG 36,361-364).

11 Canh thức Vượt qua, Làm phép nước, 42: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 283.

12 X. St 1,2.

13 Canh thức Vượt qua, Làm phép nước, 42: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 283.

14 Canh thức Vượt qua, Làm phép nước, 42: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 283.

15 Canh thức Vượt qua, Làm phép nước, 42: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 283.

16 X. Mt 3,13.

17 X. Mc 16,15-16.

18 X. Mt 3,15.

19 X. Pl 2,7.

20 X. Mt 3,16-17.

21 X. Mc 10,38; Lc 12,50

22 X. Ga 19,34.

23 X.1 Ga 5,6-8.

24 Thánh Ambrôsiô, De Sacramentis, 2,2,6: CSEL 73,27-28 (PL 16,425-426).

25 X. Cv 2,41; 8,12-13; 10,48; 16,15.

26 X. Cl 2,12.

27 X. Gl 3,27.

28 X. 1 Cr 6,11; 12,13.

29 X. 1 Pr 1,23; Ep 5,26.

30 Thánh Augustinô, In Iohannis evangelium tractatus, 80, 3: CCL 36,529 (PL 35,1840).

31 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 64: AAS 56 (1964) 117.

32 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 65: AAS 56 (1964) 117; x. Ibid., 37-40: AAS 56 (1964) 110-111.

33 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 14: AAS 58 (1966) 963; Bộ Giáo Luật, các điều 851.865-866.

34 X. Bộ Giáo Luật, các điều 851,2.868.

35 X. Rm 6,17.

36 X. Nghi thức Rửa tội cho trẻ em, 62 (Typis Polyglottis Vaticanis 1969) 32.

37 X. Gl 3,27.

38 X. Pl 2,15.

39 Bộ Giáo Luật, điều 864; x. Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 679.

40 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 14: AAS 58 (1966) 962-963; x. Nghi thức gia nhập Ki-tô giáo cho người lớn, Praenotanda 19 (Typis Polyglottis Vaticanis 1972) 11; Ibid., De tempore catechumenatus eiusque ritibus 98,36.

41 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 14: AAS 58 (1966) 963.

42 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 14: AAS 57 (1965) 19; x. Bộ Giáo Luật, các điều 206.788.

43 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 5a, Decretum de peccato originali, c. 4: DS 1514.

44 X. Cl 1,12-14.

45 X. Bộ Giáo Luật, điều 867; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 686,1.

46 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965) 15-16; Ibid., 41: AAS 57 (1965) 47; Id., Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 48: AAS 58 (1966) 1067-1069; Bộ Giáo Luật, các điều 774,2.1136.

47 X. Cv 16,15.33; 18,8; 1 Cr 1,16.

48 X. Thánh bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Pastoralis actio, 4: AAS 72 (1980) 1139.

49 X. Mc 16,16.

50 X. Bộ Giáo Luật, các điều 872-874.

51 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 67: AAS 56 (1964) 118.

52 X. Bộ Giáo Luật, điều 861,1; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 677,1.

53 X. Bộ Giáo Luật, điều 861,2.

54 X. 1 Tm 2,4.

55 X. Mc 16,16.

56 X. Ga 3,5.

57 X. Mt 28,20. X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 7a, Decretum de sacramentis, Canones de sacramento Baptismi, canon 5: DS 1618; CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 14: AAS 57 (1965) 18; Id., Sắc lệnh Ad Gentes, 5: AAS 58 (1966) 951-952.

58 X. Mc 16,16.

59 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1043; x. Id., Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 16: AAS 57 (1965) 20; Id., Sắc lệnh Ad Gentes, 7: AAS 58 (1966) 955.

60 X. Cv 2,38; Ga 3,5.

61 X. CĐ Florentinô, Decretum pro Armenis: DS 1316.

62 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 5a, Decretum de peccato originali, canon 5: DS 1515.

63 X. 2 Cr 5,17.

64 X. Gl 4,5-7.

65 X. 2 Pr 1,4.

66 X. 1 Cr 6,15; 12,27.

67 X. Rm 8,17.

68 X. 1 Cr 6,19.

69 X. 1 Cr 6,19.

70 X. 2 Cr 5,15.

71 X. Ep 5,21; 1 Cr 16,15-16.

72 X. Ga 13,12-15.

73 X. Dt 13,17.

74 X. 1 Tx 5,12-13.

75 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 37: AAS 57 (1965) 42-43; Bộ Giáo Luật, các điều 208-223; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 675,2.

76 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.

77 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 17: AAS 57 (1965) 21; Id., Sắc lệnh Ad Gentes, 7: AAS 58 (1966) 956; Ibid., 23: AAS 58 (1966) 974-975.

78 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 93.

79 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 22: AAS 57 (1965) 105.

80 X. Rm 8,29.

81 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 7a, Decretum de sacramentis, Canones de sacramentis in genere, canon 9: DS 1609 ; Ibid., Canones de sacramento Baptismi, canon 6: DS 1619.

82 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.

83 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 10: AAS 57 (1965) 15-16.

84 X. Thánh Augustinô, Epistula 98, 5: CSEL 34,527 (PL 33,362).

85 X. Ep 1,13-14; 2 Cr 1,21-22.

86 Thánh I-rê-nê, Demonstratio praedicationis apostolicae, 3: SC 62,32.

87 Kinh nguyện Thánh Thể I còn gọi là Lễ Quy Rô-maSách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 454.

88 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 7a, Decretum de sacramentis, Canones de sacramentis in genere, canon 9: DS 1609 ; Ibid., Canones de sacramento Baptismi, canon 11: DS 1624.

89 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 16: AAS 57 (1965) 20.

 

Mục 2: Bí tích Thêm Sức (1285-1321)

1285. Bí tích Thêm Sức cùng với bí tích Rửa Tội và Thánh Thể tạo thành tổng thể “các bí tích khai tâm Ki-tô Giáo”, mà sự thống nhất của nó phải được giữ gìn. Vì thế, phải giải thích cho các tín hữu biết việc lãnh nhận bí tích Thêm Sức là cần thiết để hoàn tất ân sủng của bí tích Rửa Tội.90 Thật vậy, những người đã chịu Phép Rửa “nhờ bí tích Thêm Sức, được liên kết với Hội Thánh cách hoàn hảo hơn, được dư đầy sức mạnh đặc biệt của Chúa Thánh Thần, và như vậy, với tư cách là những nhân chứng thật của Đức Ki-tô, họ càng có bổn phận khẩn thiết hơn phải loan truyền và đồng thời bảo vệ đức tin bằng lời nói và việc làm.”91

I. Bí tích Thêm Sức trong Nhiệm cục cứu độ (1286-1292)

1286. 702-716

Trong Cựu Ước các tiên tri đã loan báo rằng Thần Khí Chúa sẽ ngự xuống trên Đấng Mê-si-a thiên hạ đợi trông92 vì sứ vụ cứu độ của Người.93 Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giê-su, khi Người được ông Gio-an làm phép rửa, là dấu chỉ cho thấy chính Người là Đấng phải đến, chính Người là Đấng Mê-si-a, là Con Thiên Chúa.94 Chúa Giê-su đã được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần; trọn cuộc đời và sứ vụ của Người đều hiệp thông trọn vẹn với Chúa Thánh Thần, Đấng “Chúa Cha ban cho Người vô ngần vô hạn” (Ga 3,34).

1287. 739

Tuy nhiên, việc tràn đầy Thần Khí không phải chỉ dành cho Đấng Mê-si-a, mà phải được truyền thông cho toàn thể dân của Đấng Mê-si-a95. Nhiều lần, Đức Ki-tô đã hứa việc tuôn ban Thần Khí như vậy,96 và Người đã thực hiện lời hứa đó trước tiên vào ngày lễ Vượt Qua,97 và sau đó, một cách hoành tráng hơn, vào ngày lễ Ngũ Tuần.98 Được tràn đầy Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ bắt đầu rao giảng “những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2,11), và thánh Phê-rô công bố rằng việc tuôn đổ Thánh Thần này là dấu chỉ thời đại Mê-si-a.99 Lúc đó những ai tin lời rao giảng của các Tông Đồ và chịu Phép Rửa, thì đến lượt họ cũng được lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần.100

1288. 699

“Từ đó, thực hiện ý muốn của Đức Ki-tô, các Tông Đồ đã đặt tay ban hồng ân Thần Khí cho các tân tòng để kiện toàn ân sủng của bí tích Rửa Tội.101 Chính vì vậy, như trong thư gửi tín hữu Do-thái, giáo lý về các phép rửa và về việc đặt tay đã được kể vào số các yếu tố của giáo huấn sơ đẳng của Ki-tô Giáo.102 Việc đặt tay được công nhận cách đúng đắn theo truyền thống công giáo là nguồn gốc của bí tích Thêm Sức, và một cách nào đó, bí tích này làm cho ân sủng ngày lễ Ngũ Tuần luôn tồn tại trong Hội Thánh.”103

1289. 695, 436, 1297

Từ rất xa xưa, để biểu thị rõ hơn hồng ân Chúa Thánh Thần, việc xức dầu thơm (dầu Chrisma) được liên kết với việc đặt tay. Việc xức dầu này làm sáng tỏ danh xưng “Ki-tô hữu” (Christianus) có nghĩa là “người được xức dầu” và bắt nguồn từ danh xưng của chính Đức Ki-tô (Christus): “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người” (Cv 10,38). Nghi thức Xức Dầu này tồn tại đến ngày nay trong nghi lễ Đông cũng như Tây phương. Vì vậy, ở Đông phương, bí tích này được gọi là bí tích Dầu Chrisma (Christmatio là việc xức bằng dầu Myron, nghĩa là Dầu thánh). Ở Tây phương, thuật ngữ bí tích Thêm Sức (Confirmatio) nói lên rằng bí tích này vừa kiện toàn bí tích Rửa Tội, vừa củng cố ân sủng của bí tích Rửa Tội.

Hai truyền thống: Đông phương và Tây phương (1290-1292)

1290. 1233

Trong những thế kỷ đầu, bí tích Thêm Sức thường được cử hành chung với bí tích Rửa Tội, thành một “bí tích kép”, theo kiểu nói của thánh Cyprianô.104 Ngoài các lý do khác, còn có sự gia tăng việc ban bí tích Rửa Tội cho các nhi đồng trong suốt năm, và có thêm nhiều giáo xứ (ở đồng quê), các giáo phận lớn dần, những điều này khiến Giám mục không thể hiện diện trong tất cả các cử hành rửa tội được nữa. Ở Tây phương, bởi vì người ta muốn dành cho Giám mục việc hoàn tất bí tích Rửa Tội, nên đã tách biệt về thời gian của hai bí tích này. Đông phương vẫn duy trì việc liên kết hai bí tích trên, nên bí tích Thêm Sức được ban do vị linh mục cử hành Phép Rửa. Tuy nhiên, vị này chỉ có thể ban bí tích Thêm Sức với dầu thánh đã được Giám mục thánh hiến.105

Bài này đã được xem 5658 lần!

Pages ( 46 of 96 ): <1 ... 4445 46 4748 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]