I. Thánh Thể, nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Hội Thánh (1324-1327)
1324. 864
Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn thể đời sống Ki-tô Giáo.146 “Những bí tích khác cũng như mọi thừa tác vụ trong Hội Thánh, và các hoạt động tông đồ, đều gắn liền với bí tích Thánh Thể và quy hướng về bí tích đó. Thật vậy, phép Thánh Thể Chí Thánh chứa đựng toàn bộ của cải thiêng liêng của Hội Thánh, đó là chính Đức Ki-tô, Chiên Vượt Qua của chúng ta.”147
1325. 775
“Việc hiệp thông vào sự sống của Thiên Chúa và sự hợp nhất của dân Thiên Chúa, nhờ hai điều đó mà Hội Thánh tồn tại, được diễn tả cách xác đáng và thực hiện cách kỳ diệu nhờ bí tích Thánh Thể. Trong bí tích này, hành động Thiên Chúa thánh hóa trần gian trong Đức Ki-tô và việc phụng tự mà con người dâng lên Đức Ki-tô và nhờ Người mà dâng lên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, cả hai đều đạt tới tột đỉnh.”148
1326. 1090
Sau cùng, nhờ việc cử hành bí tích Thánh Thể, chúng ta đã được kết hợp với phụng vụ trên trời và tham dự trước vào đời sống vĩnh cửu, trong đó “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28).
1327. 1124
Tóm lại, bí tích Thánh Thể là bản toát yếu và tổng luận của đức tin của chúng ta: “Cách chúng ta suy nghĩ phù hợp với bí tích Thánh Thể, và ngược lại bí tích Thánh Thể xác nhận cách suy nghĩ của chúng ta.”149
II. Bí tích Thánh Thể được gọi thế nào? (1328-1332)
1328. 2637, 1082, 1359
Sự phong phú vô tận của bí tích này được diễn tả qua nhiều tên gọi khác nhau mà người ta dành cho bí tích này. Mỗi một trong các tên gọi đó gợi lên một số phương diện. Người ta gọi bí tích Thánh Thể là: Lễ Tạ Ơn, bởi vì đây chính là hành động cảm tạ Thiên Chúa. Các từ Eucharistein (Lc 22,19; 1 Cr 11,24) và eulogein (Mt 26,26; Mc 14,22) nhắc lại những lời chúc tụng của dân Do-thái – nhất là trong bữa ăn – để tung hô các kỳ công của Thiên Chúa: tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa.
1329. 1382, 790, 1348
Bữa ăn tối của Chúa,150 bởi vì Hội Thánh tưởng niệm bữa Tiệc Ly Chúa cùng ăn với các môn đệ Người hôm trước ngày Người chịu nạn, và đây như là việc tham dự trước vào Tiệc Cưới của Con Chiên151 trong thành Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
Việc Bẻ Bánh, vì nghi thức này, nét đặc thù của bữa ăn Do-thái, đã được Chúa Giê-su sử dụng khi Người dâng lời chúc tụng và phân phối bánh với tư cách người chủ tiệc,152 đặc biệt trong bữa Tiệc Ly.153 Nhờ cử chỉ này, các môn đệ nhận ra Người sau khi Người sống lại;154 và các Ki-tô hữu tiên khởi đã dùng thuật ngữ “Bẻ Bánh” để nói về các buổi cử hành Thánh Thể của họ.155 Như vậy, họ muốn nói lên rằng, tất cả những ai cùng ăn một tấm bánh duy nhất được bẻ ra, là Đức Ki-tô, thì được hiệp thông với Người và làm thành một thân thể trong Người.156
Cộng đoàn Thánh Thể (Synaxis), bởi vì bí tích Thánh Thể được cử hành trong cộng đoàn các tín hữu, đó là cách diễn tả hữu hình về Hội Thánh.157
1330. 1341, 614, 2643, 1169
Việc Tưởng Niệm cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa.
Hy tế thánh, bởi vì hy tế duy nhất của Đức Ki-tô Đấng Cứu Độ được hiện tại hóa và bao gồm cả lễ vật của Hội Thánh. Bí tích Thánh Thể còn được gọi là Hy tế Thánh lễ, “lễ tế ngợi khen” (Dt 13,15)158, lễ tế thiêng liêng,159 hy tế tinh tuyền160 và thánh thiện, bởi vì bí tích này hoàn tất và vượt trên mọi hy tế của Giao Ước cũ.
Phụng vụ thánh và thần linh, bởi vì tất cả phụng vụ của Hội Thánh có trung tâm và cách diễn tả cô đọng nhất trong việc cử hành bí tích này; cũng theo nghĩa đó bí tích Thánh Thể còn được gọi là cuộc cử hành Các mầu nhiệm thánh. Bí tích này cũng được gọi là Bí Tích Cực Thánh, bởi vì là bí tích của các bí tích. Danh xưng này để chỉ các hình dạng Thánh Thể được lưu giữ trong Nhà Tạm.
1331. 950, 948, 1405
Sự hiệp lễ, bởi vì nhờ bí tích này, chúng ta được kết hợp với Đức Ki-tô, là Đấng cho chúng ta tham dự vào Mình và Máu Người, để làm thành một thân thể duy nhất;161 bí tích này cũng được gọi là Những sự thánh (ta hagia; sancta)162 – đây là ý nghĩa đầu tiên của mầu nhiệm “các Thánh thông công” mà Tín biểu của các Tông Đồ nói đến –, Bánh các Thiên thần, Bánh bởi trời, Thuốc trường sinh163, Của ăn đàng...
1332. 849
Thánh Lễ (Lễ Mi-sa), bởi vì phụng vụ trong đó mầu nhiệm cứu độ được hoàn tất, được kết thúc bằng việc sai các tín hữu ra đi (missio), để họ chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong đời sống hằng ngày của họ.
III. Bí tích Thánh Thể trong Nhiệm cục cứu độ (1333-1344)
Các dấu chỉ là bánh và rượu (1333-1336)
1333. 1350, 1147, 1148
Ở trung tâm việc cử hành bí tích Thánh Thể có bánh và rượu, mà nhờ lời của Đức Ki-tô và việc khẩn cầu Chúa Thánh Thần, sẽ trở thành Mình và Máu của Đức Ki-tô. Trung thành với mệnh lệnh của Chúa, để nhớ đến Người, cho tới khi Người lại đến trong vinh quang, Hội Thánh tiếp tục làm điều Chúa đã làm hôm trước ngày Người chịu khổ hình: “Người cầm lấy bánh…”, “Người cầm lấy chén rượu…” Các dấu chỉ là bánh và rượu, khi đã trở nên Mình và Máu Đức Ki-tô cách mầu nhiệm, vẫn tiếp tục nói lên sự thiện hảo của công trình tạo dựng. Vì vậy, trong phần Dâng lễ, chúng ta tạ ơn Đấng Tạo hóa vì đã ban bánh và rượu,164 là kết quả của “công lao của con người,” nhưng trước hết đó là “hoa mầu ruộng đất” và “sản phẩm từ cây nho”, tức là những hồng ân của Đấng Tạo Hóa. Hội Thánh nhận ra cử chỉ của Men-ki-xê-đê, là vua và là tư tế, ông “mang bánh và rượu ra” (St 14,18), là hình ảnh tiên báo cho hiến lễ của mình.165
1334. 1150, 1363
Thời Giao Ước cũ, trong số các hoa trái đầu mùa của ruộng đất, bánh và rượu được dâng lên làm lễ vật, với tính cách một dấu chỉ của lòng biết ơn đối với Đấng Tạo Hóa. Nhưng chúng còn mang một ý nghĩa mới trong bối cảnh cuộc Xuất Hành: Các bánh không men mà người Do-thái hằng năm vẫn ăn trong dịp lễ Vượt Qua, gợi nhớ đến sự vội vã của cuộc ra đi thoát khỏi Ai Cập; kỷ niệm về manna trong sa mạc luôn nhắc nhớ dân Ít-ra-en rằng họ sống bằng bánh là Lời Chúa.166 Cuối cùng, bánh ăn hằng ngày là sản phẩm của Đất hứa, là bảo chứng việc Thiên Chúa trung tín với các lời hứa của Ngài. “Chén chúc tụng” (1 Cr 10,16) vào cuối bữa tiệc Vượt Qua của người Do-thái, đã thêm cho rượu một ý nghĩa cánh chung ngoài niềm vui lễ hội, đó là sự trông chờ Đấng Mê-si-a đến tái tạo Giê-ru-sa-lem. Khi thiết lập bí tích Thánh Thể của Người, Chúa Giê-su đã ban một ý nghĩa mới và dứt khoát cho việc dâng lời chúc tụng trên bánh và chén rượu.
1335. 1151
Các phép lạ hóa bánh ra nhiều, khi Chúa dâng lời chúc tụng, bẻ bánh ra và trao cho các môn đệ Người để nuôi dưỡng đám đông, là hình ảnh tiên báo sự vô cùng phong phú của tấm bánh duy nhất là Thánh Thể của Người.167 Dấu chỉ nước hóa thành rượu ở Ca-na168 đã loan báo Giờ vinh quang của Chúa Giê-su. Dấu chỉ này biểu lộ sự hoàn tất của bữa tiệc cưới trong Nước của Chúa Cha, nơi các tín hữu uống rượu mới169 đã trở thành Máu Đức Ki-tô.
1336. 1327
Lời loan báo đầu tiên về bí tích Thánh Thể đã gây chia rẽ các môn đệ, giống như lời loan báo về cuộc khổ nạn đã làm cho họ vấp phạm: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6,60). Thánh Thể và Thánh Giá là những hòn đá gây vấp ngã. Vẫn là cùng một mầu nhiệm, và mầu nhiệm đó không ngừng là cớ gây chia rẽ. “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67): Câu hỏi này của Chúa vang vọng qua các thời đại, với tính cách một lời mời gọi của tình yêu của Người để khám phá ra rằng, chỉ một mình Người mới có “những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68), và việc đón nhận hồng ân Thánh Thể của Người trong đức tin là đón nhận chính Người.
Việc thiết lập bí tích Thánh Thể (1337-1340)
1337. 610, 611
Khi yêu thương những kẻ thuộc về mình, Chúa đã yêu họ đến cùng. Khi biết đã đến Giờ lìa bỏ thế gian mà về cùng Cha mình, trong một bữa tiệc, Người đã rửa chân cho họ và ban cho họ giới luật yêu thương.170 Để lưu lại cho họ bảo chứng của tình yêu này, để không bao giờ lìa xa những kẻ thuộc về mình, và để họ được tham dự vào cuộc Vượt Qua của Người, Người đã thiết lập bí tích Thánh Thể, với tính cách một việc để nhớ đến cái Chết và sự Sống lại của Người, và Người truyền cho các Tông Đồ Người, “những vị Người đặt làm tư tế của Giao Ước Mới”171 phải cử hành bí tích này cho tới khi Người lại đến.
1338. Ba Tin Mừng Nhất Lãm và thánh Phao-lô lưu truyền cho chúng ta bản tường thuật việc thiết lập bí tích Thánh Thể; về phần mình, thánh Gio-an thuật lại những lời của Chúa Giê-su tại hội đường Ca-phác-na-um, những lời đó thật sự chuẩn bị cho việc thiết lập bí tích Thánh Thể: chính Đức Ki-tô tự xưng mình là Bánh Hằng Sống, từ trời xuống.172
1339. 1169
Chúa Giê-su chọn thời gian mừng lễ Vượt Qua để thực hiện điều Người đã báo trước ở Ca-phác-na-um: Người ban Mình và Máu Người cho các môn đệ của Người:
“Đã đến ngày lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua. Chúa Giê-su sai ông Phê-rô với ông Gio-an đi và dặn: ‘Các anh hãy đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua’… Các ông ra đi… và dọn tiệc Vượt Qua. Khi giờ đã đến, Chúa Giê-su vào bàn cùng với các Tông Đồ. Người nói với các ông: ‘Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình. Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa’… Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: ‘Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy’. Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: ‘Chén này là giao ước mới, lập bằng Máu Thầy, máu đổ ra vì anh em’” (Lc 22,7-20).173
1340. 1151, 677
Khi cử hành bữa Tiệc Ly với các Tông Đồ của Người trong khung cảnh bữa tiệc Vượt Qua, Chúa Giê-su đã ban cho lễ Vượt Qua của người Do-thái một ý nghĩa dứt khoát. Quả thật, cuộc Vượt Qua của Chúa Giê-su để về cùng Cha Người, qua cái Chết và sự Sống lại, thật sự là cuộc Vượt Qua mới, được tham dự trước trong bữa Tiệc Ly và được cử hành trong bí tích Thánh Thể, cuộc Vượt Qua đó hoàn thành lễ Vượt Qua của người Do-thái và tham dự trước vào lễ Vượt Qua chung cuộc của Hội Thánh trong vinh quang Nước Thiên Chúa.
“Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (1341-1344)
1341. 611, 1363
Mệnh lệnh Chúa Giê-su truyền phải lặp lại những cử chỉ và lời nói của Người “cho tới khi Chúa đến” (1 Cr 11,26), không chỉ đòi hỏi phải nhớ đến Chúa Giê-su và những gì Người đã làm. Mệnh lệnh này nhắm đến việc cử hành phụng vụ, do các Tông Đồ và những người kế nhiệm các ngài, để tưởng niệm Đức Ki-tô, tưởng niệm cuộc đời của Người, cái Chết và sự Sống lại của Người, và việc chuyển cầu của Người bên Chúa Cha.
1342. 2624
Ngay từ đầu, Hội Thánh đã trung thành tuân giữ mệnh lệnh này của Chúa. Về Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem có bài tường thuật như sau:
“Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng… Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ” (Cv 2,42.46).
1343. 1166, 2177
Đặc biệt vào “ngày thứ nhất trong tuần”, nghĩa là ngày Chúa Nhật, ngày Chúa Giê-su phục sinh, các Ki-tô hữu tụ họp để “bẻ bánh” (Cv 20,7). Từ đó đến nay, việc cử hành bí tích Thánh Thể tiếp tục tồn tại y như vậy, đến độ ngày nay chúng ta vẫn gặp được việc cử hành đó, ở bất cứ đâu trong Hội Thánh, với cùng một cấu trúc căn bản. Bí tích Thánh Thể vẫn mãi mãi là trung tâm của đời sống Hội Thánh.
1344. 1404
Như vậy, từ cử hành này sang cử hành khác để loan báo mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giê-su, “cho tới khi Chúa đến” (1 Cr 11,26), dân Thiên Chúa trên đường lữ hành, “qua đường hẹp của thập giá”,174 đang tiến về bàn tiệc thiên quốc, nơi tất cả mọi người được tuyển chọn sẽ ngồi vào bàn tiệc của Nước Thiên Chúa.
IV. Cử hành phụng vụ Thánh Thể (1345-1355)
Thánh lễ của mọi thời đại (1345-1347)
1345. Từ thế kỷ II, chúng ta có chứng từ của thánh Giustinô tử đạo về những nét chính của việc cử hành thánh lễ. Những nét chính đó vẫn được giữ nguyên cho đến ngày nay, trong tất cả các truyền thống phụng vụ lớn. Để giải thích cho hoàng đế ngoại giáo An-tô-ni-ô Pi-ô (138-161) những gì các Ki-tô hữu đã làm, thánh Giustinô viết vào khoảng năm 155 như sau:
“Vào ngày Mặt Trời như người ta thường gọi, mọi người ở thành phố hay ở nông thôn đều họp lại một nơi.
Và người ta đọc ký sự của các Tông Đồ hoặc sách của các Tiên tri, tùy thời gian cho phép.
Khi người đọc kết thúc, vị chủ sự lên tiếng nhắn nhủ và khuyến khích mọi người bắt chước những điều tốt lành đó.
Sau đó, tất cả chúng tôi cùng đứng dậy và dâng lời cầu nguyện175 cho chính chúng tôi… và cho mọi người khác ở khắp nơi,… để chúng tôi sống ngay chính trong các việc làm và trong việc tuân giữ các giới răn, hầu chúng tôi đạt được ơn cứu độ vĩnh cửu.
Khi kết thúc việc cầu nguyện, chúng tôi trao hôn bình an cho nhau.
Tiếp đến, người ta mang đến cho vị chủ sự bánh và một chén rượu có pha nước.
Vị chủ sự cầm lấy bánh rượu, dâng lời tán tụng và tôn vinh Cha của vũ trụ, nhân danh Chúa Con và Chúa Thánh Thần và đọc một kinh tạ ơn dài (tiếng Hy Lạp: eucharistian) về việc chúng tôi được coi là xứng đáng với các hồng ân này.
Khi vị chủ sự kết thúc các lời nguyện và việc tạ ơn, mọi người hiện diện đồng thanh đáp: A-men.
Sau khi vị chủ sự hoàn tất nghi thức tạ ơn và toàn dân đã đáp lại, thì các vị mà chúng tôi gọi là phó tế, phân phát bánh và rượu có pha nước ‘đã được thánh thể hoá’ (‘eucharistizata’) cho mỗi người hiện diện tham dự và đem đến cho những người vắng mặt.”176
1346. 103
Phụng vụ Thánh lễ diễn tiến theo một cấu trúc căn bản đã được duy trì qua các thế kỷ cho đến thời đại chúng ta. Phụng vụ Thánh lễ được triển khai trong hai phần chính, làm thành một thể thống nhất:
– Tập họp, Phụng vụ Lời Chúa với các bài đọc, bài giảng và lời nguyện phổ quát;
– Phụng vụ Thánh Thể với việc tiến dâng bánh rượu; kinh tạ ơn thánh hiến [Kinh nguyện Thánh Thể] và hiệp lễ.
Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể cùng tạo thành “một hành vi phụng tự duy nhất”;177 thật vậy, bàn tiệc được dọn ra cho chúng ta trong Thánh Lễ vừa là bàn tiệc Lời Thiên Chúa, vừa là bàn tiệc Mình Chúa.”178
1347. Đó không phải là diễn tiến bữa tiệc Vượt Qua của Chúa Giê-su phục sinh với các môn đệ Người sao? Khi đi đường, Người giải thích Kinh Thánh cho họ, rồi khi vào bàn ăn với họ, “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ” (Lc 24,30).179
Diễn tiến việc cử hành (1348-1355)
1348. 1140, 1548
Tất cả mọi người tập họp lại. Các Ki-tô hữu tập họp lại một nơi để cử hành Thánh Thể. Trong đó, chính Đức Ki-tô đứng đầu cộng đoàn, Người là nhân vật hoạt động chính của bí tích Thánh Thể. Người là Thượng tế của Giao Ước Mới. Chính Người chủ trì cách vô hình mọi việc cử hành Thánh Thể. Thay mặt Người, Giám mục hay linh mục (hành động trong cương vị của Đức Ki-tô là Đầu) chủ trì cộng đoàn, lên tiếng sau các bài đọc, đón nhận lễ vật và đọc Kinh nguyện Thánh Thể. Mọi người đều có phần chủ động của mình trong cuộc cử hành, mỗi người theo cách của mình: người thì đọc Sách Thánh, người thì mang lễ vật, người thì trao Mình Thánh Chúa và toàn dân biểu lộ sự tham dự của mình bằng lời đáp A-men.
1349. 1184
Phụng vụ Lời Chúa gồm “các tác phẩm của các Tiên tri”, nghĩa là Cựu Ước, và “ký sự của các Tông Đồ”, nghĩa là các thánh thư và các sách Tin Mừng; sau đó là bài giảng để khuyến khích việc đón nhận các lời này xét như đó thật sự là Lời Chúa,180 và đem ra thực hành, tiếp đến là lời chuyển cầu cho mọi người, theo lời thánh Tông Đồ dạy: “Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền” (1 Tm 2,1-2).
1350. 1359, 614
Dâng lễ vật (offertorium). Người ta mang, hay đôi khi rước cách long trọng, bánh và rượu lên bàn thờ. Bánh rượu này sẽ được chủ tế, nhân danh Đức Ki-tô, dâng lên trong Hy tế Thánh Thể, để trở thành Mình Máu Đức Ki-tô. Đây chính là cử chỉ của Đức Ki-tô, trong bữa Tiệc Ly, “cầm lấy bánh và chén rượu.” “Chỉ có Hội Thánh mới dâng lên Đấng Tạo hóa lễ vật tinh tuyền này, khi dâng lên Ngài cùng với lời tạ ơn, lễ vật từ các thụ tạo của Ngài.”181 Việc dâng lễ vật trên bàn thờ lặp lại cử chỉ của Men-ki-xê-đê và phó dâng các tặng phẩm của Đấng Tạo hóa vào tay Đức Ki-tô. Trong hy tế của Người, chính Đức Ki-tô kiện toàn mọi cố gắng dâng hy tế của con người.
Bài này đã được xem 5670 lần!