GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

1351. 1397, 2186

Từ thuở ban đầu, khi mang bánh và rượu đến cử hành thánh lễ, các Ki-tô hữu cũng mang theo tặng phẩm của mình để chia sẻ với những người túng thiếu. Tục lệ quyên góp182 này, nay vẫn còn, được gợi hứng từ gương mẫu của Đức Ki-tô, Đấng trở nên nghèo để làm cho chúng ta nên giàu có:183

“Những ai sung túc mà muốn thì cho tùy ý mình, và những gì quyên góp được, sẽ được trao cho vị chủ sự, và ngài sẽ giúp đỡ cho các cô nhi quả phụ, những người vì bệnh tật hay vì một lý do nào khác phải thiếu thốn, các tù nhân, các di dân, tắt một lời, ngài cứu giúp cho tất cả những ai đang túng thiếu.”184

1352. 559

Kinh nguyện Thánh Thể. Với kinh nguyện Thánh Thể, lời kinh tạ ơn và thánh hiến, chúng ta bước vào trung tâm và tột đỉnh của cuộc cử hành:

Trong Kinh Tiền Tụng, Hội Thánh dâng lời tạ ơn Chúa Cha, nhờ Đức Ki-tô, trong Chúa Thánh Thần, về tất cả các công trình của Ngài, các công trình tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa. Lúc đó toàn thể cộng đoàn kết hợp với lời ca vô tận của Hội Thánh trên trời, các Thiên thần và toàn thể các Thánh, tán tụng Thiên Chúa ba lần thánh.

1353. 1105, 1375

Trong Kinh Epiclesis, Hội Thánh khẩn cầu Chúa Cha sai Thần Khí của Ngài (hay quyền năng chúc lành của Ngài185) xuống trên bánh rượu để nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, bánh rượu trở nên Mình Máu Chúa Giê-su Ki-tô, và để những ai tham dự bí tích Thánh Thể được trở thành một thân thể và một tinh thần duy nhất (một số truyền thống phụng vụ đặt lời kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần sau Kinh Tưởng Niệm).

Trong phần tường thuật việc Chúa thiết lập bí tích Thánh Thể, sức mạnh của lời nói và hành động của Đức Ki-tô, và quyền năng của Chúa Thánh Thần, làm cho Mình và Máu Đức Ki-tô, là hy tế Người đã dâng trên thập giá một lần cho mãi mãi, hiện diện cách bí tích dưới hình bánh hình rượu.

1354. 1103, 954

Trong Kinh Tưởng Niệm tiếp theo sau đó, Hội Thánh kính nhớ cuộc khổ nạn, sự phục sinh và sự quang lâm vinh hiển của Đức Ki-tô Giê-su; Hội Thánh trình lên Chúa Cha hy tế là Con của Ngài, Đấng giao hòa chúng ta với Ngài.

Trong các lời chuyển cầu, Hội Thánh cho thấy bí tích Thánh Thể được cử hành trong sự hiệp thông với toàn thể Hội Thánh trên trời dưới thế, với kẻ sống và người chết, và trong sự hiệp thông với các vị mục tử của Hội Thánh, Đức Giáo Hoàng, Đức Giám mục giáo phận, hàng linh mục và phó tế của ngài và tất cả các Giám mục toàn cầu cùng với các Giáo Hội của các ngài.

1355. 1382, 1327

Trong phần Hiệp lễ, trước đó có kinh Lạy Cha và nghi thức bẻ bánh, các tín hữu lãnh nhận “bánh bởi trời” và “chén cứu độ”, là Mình và Máu Thánh Đức Ki-tô, Đấng tự hiến “để cho thế gian được sống” (Ga 6,51):

“Bởi vì bánh này và rượu này, theo cách nói xưa là ‘đã được thánh thể hoá’ (‘eucharistizata’),186 nên chúng tôi gọi lương thực này là Thánh Thể, không ai được chia sẻ lương thực này, ngoài kẻ tin rằng giáo lý của chúng tôi là chân thật, và đã được Rửa Tội để được tha thứ tội lỗi và được tái sinh, và sống như Đức Ki-tô đã dạy.”187

V. Hy lễ bí tích: Tạ ơn, tưởng niệm, hiện diện (1356-1381)

1356. Nếu ngay từ ban đầu, các Ki-tô hữu đã cử hành thánh lễ với một hình thức về căn bản không thay đổi, dù trải qua nhiều khác biệt lớn về thời đại và các nền phụng vụ, thì chính là bởi vì chúng ta biết mình bị ràng buộc bởi mệnh lệnh Chúa đã ban, hôm trước ngày Người chịu khổ hình: “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (1 Cr 11,24-25).

1357. Chúng ta chu toàn mệnh lệnh này của Chúa, khi chúng ta cử hành việc tưởng niệm hy tế của Người. Khi làm điều này, chúng ta dâng lên Chúa Cha những gì mà chính Ngài đã ban cho chúng ta: các tặng phẩm từ cuộc tạo dựng của Ngài, là bánh và rượu, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần và các lời của Đức Ki-tô, trở nên Mình và Máu Đức Ki-tô: như thế, Đức Ki-tô hiện diện một cách thật sự và mầu nhiệm.

1358. Vì vậy, chúng ta phải khảo sát bí tích Thánh Thể với tính cách là:

– việc tạ ơn và ca ngợi Chúa Cha;

– việc tưởng niệm hy tế của Đức Ki-tô và của thân thể Người;

– sự hiện diện của Đức Ki-tô, nhờ quyền năng của Lời Người và quyền năng của Thần Khí Người.

Việc tạ ơn và ca ngợi Chúa Cha (1359-1361)

1359. 293

Thánh Thể, là bí tích của ơn cứu độ được Đức Ki-tô thực hiện trên thập giá, cũng là hy tế ca ngợi để tạ ơn vì công trình tạo dựng. Trong hy tế Thánh Thể, toàn bộ công trình tạo dựng được Thiên Chúa yêu thương được trình lên Chúa Cha qua cái Chết và sự Sống lại của Đức Ki-tô. Nhờ Đức Ki-tô, Hội Thánh có thể dâng hy tế ca ngợi để tạ ơn vì tất cả những gì là tốt, là đẹp, là đúng mà Thiên Chúa đã thực hiện trong công trình tạo dựng và trong nhân loại.

1360. 1083

Bí tích Thánh Thể là hy tế để tạ ơn Chúa Cha, là lời chúc tụng qua đó Hội Thánh diễn tả lòng tri ân của mình đối với Thiên Chúa vì mọi điều Ngài ban, vì mọi điều Ngài đã thực hiện trong công trình tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa. Bí tích Thánh Thể trước hết có nghĩa là tạ ơn.

1361. 294

Bí tích Thánh Thể cũng là hy tế ca ngợi, qua đó Hội Thánh nhân danh toàn thể thụ tạo ca tụng vinh quang Thiên Chúa. Hy tế ca ngợi này chỉ có thể được thực hiện nhờ Đức Ki-tô: Người kết hợp các tín hữu vào bản thân Người, vào lời ca ngợi của Người, vào sự chuyển cầu của Người, và như vậy, hy tế ca ngợi được dâng lên Chúa Cha nhờ Đức Ki-tô, với Người, để được chấp nhận trong Người.

Việc tưởng niệm hy tế của Đức Ki-tô và của Thân Thể Người là Hội Thánh (1362-1372)

1362. 1103

Bí tích Thánh Thể là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Ki-tô, là hiện tại hóa hy tế duy nhất của Người, và dâng hy tế duy nhất đó cách bí tích, trong phụng vụ của Hội Thánh là Thân Thể Người. Trong tất cả các Kinh nguyện Thánh Thể, chúng ta đều thấy, sau các lời tường thuật về việc Chúa thiết lập Thánh Thể, một kinh nguyện được gọi là kinh Tưởng Niệm (anamnesis hoặc memoriale).

1363. 1099

Theo ý nghĩa của Thánh Kinh, tưởng niệm không chỉ là nhớ lại những biến cố của quá khứ, nhưng còn là công bố các kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện cho loài người.188 Khi cử hành phụng vụ về các biến cố này, chúng hiện diện và được hiện tại hóa một cách nào đó. Dân Ít-ra-en hiểu về việc mình được giải thoát khỏi Ai Cập theo cách như vậy: Mỗi lần lễ Vượt Qua được cử hành, các biến cố thời Xuất Hành lại hiện diện trong ký ức của các tín hữu, để họ điều chỉnh cuộc sống của mình cho phù hợp với các biến cố đó.

1364. 611, 1085

Việc tưởng niệm trong Giao Ước mới mang một ý nghĩa mới. Khi cử hành bí tích Thánh Thể, Hội Thánh tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Ki-tô, thì cuộc Vượt Qua này trở nên hiện tại: Hy tế mà Đức Ki-tô dâng lên một lần cho mãi mãi trên thập giá, luôn luôn được hiện tại hóa.189 “Mỗi lần hy tế thập giá, qua đó ‘Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta’ (1 Cr 5,7), được cử hành trên bàn thờ, thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện.”190

1365. 2100, 1846

Bởi vì là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Ki-tô, nên bí tích Thánh Thể cũng là một hy tế. Tính chất hy tế của bí tích Thánh Thể được biểu lộ trong chính các lời thiết lập bí tích này: “Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em.” “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,19-20). Trong bí tích Thánh Thể, Đức Ki-tô ban chính thân mình đã bị nộp vì chúng ta trên thập giá, ban chính máu mà Người đã đổ ra “cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).

1366. 613

Vì vậy, bí tích Thánh Thể là một Hy tế bởi vì bí tích này làm cho Hy tế thập giá hiện diện, bởi vì bí tích này là việc tưởng niệm Hy tế đó, và bởi vì bí tích này áp dụng hiệu quả của Hy tế đó:

Đức Ki-tô “là Thiên Chúa và Chúa chúng ta,… đã tự hiến cho Chúa Cha bằng cái chết trên bàn thờ thập giá một lần cho mãi mãi, để thực hiện ơn cứu chuộc muôn đời cho loài người. Tuy nhiên, bởi vì cái chết của Người không chấm dứt chức tư tế của Người [Dt 7,24.27], nên trong bữa Tiệc Ly, ‘trong đêm bị nộp’ [1 Cr 11,23],… Người đã để lại cho Hiền Thê yêu dấu của Người là Hội Thánh một hy tế hữu hình (như bản tính con người đòi hỏi); trong hy tế hữu hình này, hy tế đẫm máu được thực hiện một lần duy nhất trên thập giá được hiện diện, và việc tưởng niệm hy tế đẫm máu đó sẽ còn mãi cho đến ngày tận thế, và sức mạnh cứu độ của hy tế đó sẽ được áp dụng để tha thứ các tội lỗi chúng ta phạm hằng ngày.”191

1367. 1545

Hy tế của Đức Ki-tô và hy tế Thánh Thể là một hy tế duy nhất. “Cũng cùng một hiến vật, cũng cùng một Đấng xưa đã tự hiến trên thập giá, nay cũng chính Người dâng lên qua thừa tác vụ tư tế, chỉ khác biệt về cách tiến dâng”:192 “Vì trong hy tế thần linh được thực hiện trong thánh lễ, cũng chính Đức Ki-tô Đấng đã tự hiến một lần bằng cách đổ máu trên bàn thờ thập giá, nay được hiến dâng và sát tế một cách không đổ máu, nên hy tế này thật sự có giá trị đền tội.”193

1368. 618, 2031, 1109

Bí tích Thánh Thể cũng là hy tế của Hội Thánh. Hội Thánh, là Thân Thể của Đức Ki-tô, tham dự vào lễ tế của Đấng là Đầu của mình. Cùng với Người, toàn thể Hội Thánh được dâng lên. Hội Thánh kết hợp mình với việc chuyển cầu của Người bên Chúa Cha, để cầu cho tất cả mọi người. Trong bí tích Thánh Thể, hy tế của Đức Ki-tô cũng trở thành hy tế của các chi thể trong Thân Thể Người. Đời sống của các tín hữu, lời ca ngợi, sự đau khổ, lời cầu nguyện, việc lao động của họ, được kết hợp với cùng những khía cạnh đó trong đời sống của Đức Ki-tô và với toàn bộ lễ tế của Người, và như vậy, chúng có một giá trị mới. Hy tế của Đức Ki-tô hiện diện trên bàn thờ đem lại cho mọi thế hệ Ki-tô hữu khả năng được kết hợp với lễ tế của Người.

Trong các hang toại đạo, Hội Thánh thường được diễn tả như một người nữ đang cầu nguyện, hai tay giang ra trong cử chỉ cầu nguyện. Như Đức Ki-tô giang tay trên thập giá, thì nhờ Người, với Người và trong Người, Hội Thánh dâng chính mình và chuyển cầu cho tất cả mọi người.

1369. 834, 882, 1561, 1566

Toàn thể Hội Thánh được kết hợp với lễ tế và lời chuyển cầu của Đức Ki-tô. Đảm nhận thừa tác vụ của thánh Phê-rô trong Hội Thánh, Đức Giáo Hoàng được liên kết với mọi cử hành Thánh lễ, trong đó, ngài được nhắc đến với tư cách là dấu chỉ và thừa tác viên của sự hợp nhất của Hội Thánh toàn cầu. Giám mục địa phương luôn có trách nhiệm về Thánh lễ, cả khi một linh mục cử hành; tên ngài được đọc lên trong Thánh lễ để nói lên rằng ngài đứng đầu Giáo Hội địa phương, giữa hàng linh mục và với sự trợ giúp của các phó tế. Cộng đoàn cũng chuyển cầu cho tất cả các thừa tác viên đang dâng lễ cho cộng đoàn và cùng với cộng đoàn:

“Bí tích Thánh Thể chỉ được coi là thành sự khi được cử hành dưới sự chủ tọa của Giám mục hay của người được ngài giao trách nhiệm.”194

“Qua thừa tác vụ của các linh mục, hy tế thiêng liêng của các tín hữu được hoàn tất trong sự kết hợp với hy tế của Đức Ki-tô, Đấng Trung Gian duy nhất, hy tế này nhờ tay các linh mục, nhân danh toàn thể Hội Thánh, được dâng lên trong thánh lễ một cách bí tích và không đổ máu, cho tới khi Chúa đến.”195

1370. 956, 969

Không những các chi thể của Đức Ki-tô còn ở trần gian, mà cả những vị đang hưởng vinh quang trên trời cũng được kết hợp với lễ tế của Đức Ki-tô: Hội Thánh dâng hy tế Thánh Thể trong sự hiệp thông với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a rất thánh, và nhớ đến ngài cũng như đến tất cả các Thánh nam nữ. Trong Thánh lễ, Hội Thánh một cách nào đó đứng dưới Thánh Giá, cùng với Mẹ Ma-ri-a, kết hợp với lễ tế và lời chuyển cầu của Đức Ki-tô.

1371. 958, 1689, 1032

Hy tế Thánh Thể cũng được dâng lên để cầu cho các tín hữu đã qua đời, “cho những người đã chết trong Đức Ki-tô mà chưa được thanh luyện trọn vẹn”,196 để họ được vào hưởng ánh sáng và bình an của Đức Ki-tô:

“Các con hãy chôn xác này ở bất cứ nơi đâu: đừng lo lắng gì về chuyện đó; mẹ chỉ xin các con điều này, là bất cứ các con ở đâu, các con hãy nhớ tới mẹ nơi bàn thờ của Chúa.”197

“Sau đó [trong Kinh nguyện Thánh Thể] chúng ta cầu cho các Giáo hoàng và các Giám mục đã an nghỉ, và cách chung, cho các tín hữu đã qua đời giữa chúng ta, vì chúng ta tin rằng các linh hồn sẽ được trợ giúp tối đa nhờ lời cầu nguyện cho họ, khi Của Lễ hiến tế thánh và đáng kính sợ đang hiện diện… Khi dâng lên Thiên Chúa những lời chuyển cầu của chúng ta cho những người đã an giấc, dù họ là những tội nhân, chúng ta dâng chính Đức Ki-tô bị sát tế vì tội lỗi chúng ta, để xin ơn giao hòa với Thiên Chúa, Bạn của loài người, cho họ và cho chúng ta.”198

1372. 1140

Thánh Augustinô tóm tắt một cách tuyệt vời giáo lý này, một giáo lý thúc giục chúng ta tham dự ngày càng trọn vẹn hơn vào hy tế của Đấng Cứu Chuộc chúng ta mà chúng ta cử hành trong Thánh lễ:

“Chính toàn thể đô thành đã được cứu chuộc, tức là cộng đoàn và tập thể các Thánh, là một hy tế phổ quát được dâng lên Thiên Chúa nhờ vị Thượng Tế, Đấng trong hình dạng một kẻ nô lệ, đã tự hiến mình chịu khổ nạn vì chúng ta, để chúng ta trở thành Thân thể của Đấng là Đầu cao cả dường ấy… Đây là hy tế của các Ki-tô hữu: ‘Chúng ta cũng vậy: tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Ki-tô’ (Rm 12,5). Hy tế này được Hội Thánh tiếp tục cử hành qua bí tích bàn thờ mà các tín hữu đã biết, trong đó Hội Thánh hiến dâng chính mình trong Hy tế mà Hội Thánh tiến dâng.”199

Sự hiện diện của Đức Ki-tô nhờ quyền năng của Lời Người và của Chúa Thánh Thần (1373-1381)

1373. 1088

“Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã chết, hơn nữa đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta” (Rm 8,34) đang hiện diện trong Hội Thánh Người dưới nhiều hình thức:200 trong Lời của Người, trong kinh nguyện của Hội Thánh Người, “ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20), trong những người nghèo khổ, những bệnh nhân, những người bị cầm tù,201 trong các bí tích mà chính Người là tác giả, trong Hy tế Thánh lễ và trong con người thừa tác viên. Nhưng “nhất là Người hiện diện dưới các hình dạng Thánh Thể”202.

1374. 1211

Cách thức hiện diện của Đức Ki-tô dưới các hình dạng Thánh Thể là độc nhất vô nhị. Người nâng bí tích Thánh Thể vượt lên trên các bí tích khác và vì vậy, bí tích này là “như sự trọn hảo của đời sống thiêng liêng và cùng đích của mọi bí tích.”203 Trong bí tích Thánh Thể cực thánh, Mình và Máu cùng với linh hồn và thần tính của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô, và như vậy, là Đức Ki-tô toàn thể (totus Christus), hiện diện một cách đích thực, thật sự, và theo bản thể204. “Sự hiện diện này được gọi là ‘thật sự’, không theo nghĩa loại trừ, nghĩa là không coi các hình thức hiện diện khác như không ‘thật sự’, nhưng theo nghĩa đặc biệt, bởi vì đây là cách hiện diện theo bản thể, và qua đó Đức Ki-tô toàn thể và trọn vẹn (totus atque integer Christus), vừa là Thiên Chúa vừa là con người, hiện diện một cách chắc chắn.”205

1375. 1105, 1128, 298

Trong bí tích này, Đức Ki-tô hiện diện nhờ sự biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Đức Ki-tô. Các Giáo phụ mạnh mẽ khẳng định đức tin của Hội Thánh vào hiệu lực của lời Đức Ki-tô và nhờ tác động của Chúa Thánh Thần trong việc thực hiện sự biến đổi này. Thánh Gio-an Kim Khẩu tuyên bố:

“Không phải người ta, nhưng chính Đức Ki-tô, Đấng đã chịu đóng đinh vì chúng ta, làm cho các lễ vật trở thành Mình và Máu Đức Ki-tô. Vị tư tế, hình ảnh của Đức Ki-tô, đọc các lời này, nhưng hiệu quả và ân sủng là do Thiên Chúa. Ngài đọc ‘Này là Mình Thầy’. Lời này biến đổi các lễ vật.”206

Và thánh Ambrôsiô nói về sự biến đổi như sau:

Chúng ta hãy tin chắc rằng: “Đây không phải là vấn đề bản chất đã tạo ra, nhưng là điều lời chúc lành đã thánh hiến. Sức mạnh của lời chúc lành vượt trên sức mạnh của bản chất, vì nhờ lời chúc lành mà chính bản chất đã biến đổi.”207 “Lời Đức Ki-tô có khả năng làm ra, từ hư không, cái trước đó chưa từng hiện hữu, chẳng lẽ lời đó lại không thể biến đổi những sự vật đang hiện hữu thành những sự vật trước đó chưa có hay sao? Việc ban bản chất đầu tiên cho sự vật cũng tương đương như biến đổi bản chất của chúng.”208

Bài này đã được xem 5720 lần!

Pages ( 49 of 96 ): <1 ... 4748 49 5051 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]