57. Trật tự đa dân tộc này, vừa có tính vũ trụ, vừa có tính xã hội và tôn giáo,11 nhằm hạn chế tính kiêu căng của một nhân loại đã sa ngã, muốn đồng lòng trong sự ngoan cố của mình,12 muốn tự mình gầy dựng sự hợp nhất theo kiểu xây tháp Ba-ben.13 Nhưng vì tội lỗi,14 nên thuyết đa thần cũng như việc tôn thờ các ngẫu tượng là dân tộc và lãnh tụ của mình, đã không ngừng đe dọa biến Nhiệm cục tạm thời này thành sự gian tà ngoại đạo.
58. 674, 2569
Giao ước với ông Nô-ê có hiệu lực trong suốt thời gian của các dân tộc,15 cho tới khi Tin Mừng được loan báo một cách phổ quát. Thánh Kinh tôn kính một số vĩ nhân của “các dân tộc”, như “A-ben, người công chính”, vua tư tế Melchisêđê,16 ông này là hình bóng của Đức Ki-tô,17 hoặc các người công chính “Nô-ê, Đa-ni-en và Gióp” (Ed 14,14). Như vậy, Thánh Kinh nói lên mức độ thánh thiện cao vời mà những người sống theo Giao ước Nô-ê có thể đạt tới, đang khi mong đợi Đức Ki-tô “quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,52).
Thiên Chúa chọn ông Áp-ra-ham (59-61)
59. 145, 2570
Để quy tụ loài người đang tản mác về một mối, Thiên Chúa chọn ông Áp-ram và phán với ông: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi” (St 12,1); với ý định làm cho ông thành Áp-ra-ham, nghĩa là “cha của vô số dân tộc” (St 17,5): “Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12,3).18
60. 760, 762, 781
Dân tộc phát sinh từ ông Áp-ra-ham sẽ được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa với các tổ phụ, tức là dân được Ngài tuyển chọn,19 họ được gọi để chuẩn bị cho việc quy tụ trong tương lai mọi con cái Thiên Chúa trong sự duy nhất của Hội Thánh;20 dân tộc này sẽ là gốc rễ mà các dân ngoại khi tin vào Thiên Chúa sẽ được tháp ghép vào.21
61. Các tổ phụ, các tiên tri và những vĩ nhân khác của Cựu ước đã và sẽ luôn được tôn kính như những vị Thánh trong tất cả các truyền thống phụng vụ của Hội Thánh.
62. 2060, 2574, 1961
Sau thời các Tổ phụ, Thiên Chúa lập Ít-ra-en làm dân của Ngài khi cứu họ khỏi ách nô lệ Ai-cập. Ngài lập Giao ước Sinai với dân và ban Lề Luật của Ngài cho họ qua ông Mô-sê, để họ nhận biết và phụng sự Ngài với tư cách là Thiên Chúa duy nhất hằng sống và chân thật, là Cha quan phòng và là thẩm phán chí công, và để họ mong đợi Đấng Cứu Độ mà Ngài đã hứa ban.22
63. 204, 2801, 839
Ít-ra-en là dân tư tế của Thiên Chúa,23 được “mang danh ĐỨC CHÚA” (Đnl 28,10). Đó là dân của “những người đầu tiên được nghe lời Chúa phán dạy”,24 dân của “những người làm anh” trong đức tin của tổ phụ Áp-ra-ham.25
Thiên Chúa huấn luyện dân Ít-ra-en của Ngài (62-64)
64. 711, 1965, 489
Qua các tiên tri, Thiên Chúa đào tạo dân Ngài trong niềm hy vọng ơn cứu độ, trong sự mong đợi Giao ước mới và vĩnh cửu dành cho tất cả mọi người,26 Giao ước đó sẽ được ghi khắc trong các trái tim.27 Các Tiên tri loan báo ơn cứu chuộc triệt để cho dân của Thiên Chúa, ơn thanh tẩy khỏi mọi bất trung của họ,28 và ơn cứu độ ấy sẽ bao gồm tất cả các dân tộc.29 Đặc biệt những người nghèo khó và khiêm nhu của Chúa30 sẽ ấp ủ niềm hy vọng này. Những phụ nữ thánh thiện như các bà Xa-ra, Rê-bê-ca, Ra-khen, Mi-ri-am, Đơ-vô-ra, An-na, Giu-đi-tha và Ét-te, đã gìn giữ cho niềm hy vọng cứu độ ấy của Ít-ra-en luôn sống động. Hình ảnh tinh tuyền nhất của niềm hy vọng này là Đức Ma-ri-a.31
III. Chúa Giê-su Ki-tô – “Đấng Trung Gian và là sự viên mãn của toàn thể mặc khải” (65-67)
Thiên Chúa đã phán dạy mọi sự trong Ngôi Lời của Ngài (65)
65. 102, 516, 2717
“Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông ta qua các tiên tri; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa làm người, là Lời duy nhất, hoàn hảo và cao cả nhất của Chúa Cha. Nơi Người, Thiên Chúa đã nói tất cả, và sẽ không có lời nào khác ngoài Lời đó. Sau bao vị khác, thánh Gio-an Thánh giá đã diễn tả điều này một cách rõ ràng, khi chú giải câu Dt 1,1-2:
“Từ khi Thiên Chúa ban cho chúng ta Con Ngài, Đấng là Lời duy nhất và dứt khoát của Ngài, Thiên Chúa đã nói với chúng ta một lần duy nhất trong Lời này và Ngài không còn gì để nói thêm nữa. Những gì trước kia Ngài chỉ nói từng phần qua các tiên tri, thì nay Ngài đã nói hết trong Đấng mà Ngài đã trao ban trọn vẹn cho chúng ta, tức là Con của Ngài. Do đó, bây giờ mà có ai còn muốn hỏi Thiên Chúa điều gì hoặc nài xin Ngài một thị kiến hay mặc khải nào nữa, thì người ấy chẳng những làm một chuyện điên rồ, mà xem ra còn xúc phạm đến Thiên Chúa, bởi không chăm chú nhìn vào Đức Ki-tô mà lại tìm kiếm một cái gì khác hoặc một điều mới lạ ngoài Đức Ki-tô.”33
Sẽ không có mặc khải nào khác nữa (66-67)
66. 94
“Vậy nhiệm cục Ki-tô Giáo sẽ không bao giờ mai một, vì là giao ước mới và vĩnh cửu. Chúng ta không phải chờ đợi một mặc khải công khai mới nào khác nữa trước ngày Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta tỏ mình ra trong vinh quang.”34 Tuy nhiên, mặc dù mặc khải đã hoàn tất, nhưng nó vẫn chưa được giải thích trọn vẹn; vì thế đức tin Ki-tô Giáo còn phải dần dần, qua dòng thời gian, tìm hiểu tất cả sự cao siêu của mặc khải.
67. 84, 93
Theo dòng lịch sử, đã xuất hiện những điều gọi là “mặc khải tư”, một số trong đó được thẩm quyền Hội Thánh công nhận. Tuy vậy, những mặc khải đó không thuộc kho tàng đức tin. Chức năng của chúng không phải là “cải thiện” hoặc “bổ sung” mặc khải vĩnh viễn của Đức Ki-tô, nhưng để giúp người ta, vào một thời điểm lịch sử nào đó, sống mặc khải của Đức Ki-tô cách trọn vẹn hơn. Cảm thức đức tin của các tín hữu, dưới sự hướng dẫn của Huấn quyền Hội Thánh, có khả năng phân định và đón nhận trong các mặc khải đó những gì là lời khuyến dụ đích thực của Đức Ki-tô hoặc của các Thánh gởi đến cho Hội Thánh.
Đức tin Ki-tô Giáo không thể tiếp nhận “những mặc khải” nào muốn vượt cao hơn hay sửa đổi mặc khải đã được hoàn tất trong Đức Ki-tô. Một số tôn giáo ngoài Ki-tô Giáo và một số giáo phái được sáng lập gần đây đặt nền tảng trên “những mặc khải” như thế.
Tóm lược (68-73)
68. Vì tình yêu, Thiên Chúa đã tự mặc khải và ban chính mình Ngài cho con người. Qua đó, Ngài mang lại lời giải đáp vĩnh viễn và dư đầy cho những vấn nạn mà con người tự đặt ra cho mình về ý nghĩa và cùng đích cuộc đời họ.
69. Thiên Chúa đã tự mặc khải cho con người, bằng việc dần dần dùng lời nói và việc làm mà truyền thông mầu nhiệm riêng của Ngài.
70. Ngoài những chứng từ mà Thiên Chúa nêu lên về chính mình Ngài qua các thụ tạo, Thiên Chúa còn đích thân tỏ mình cho nguyên tổ chúng ta. Ngài đã nói với các vị, và sau khi các vị sa ngã, Ngài đã hứa ơn cứu độ35 và ban Giao Ứơc của Ngài cho các vị.
71. Thiên Chúa lập với ông Nô-ê một giao ước vĩnh cửu giữa Ngài và mọi sinh linh.36 Giao ước này sẽ tồn tại bao lâu thế gian còn tồn tại.
72. Thiên Chúa đã tuyển chọn ông Áp-ra-ham và đề xướng một giao ước với ông và dòng dõi ông. Từ đó, Thiên Chúa thiết lập dân Ngài và mặc khải Lề Luật của Ngài cho họ qua ông Mô-sê. Nhờ các tiên tri, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho dân ấy đón nhận ơn cứu độ dành cho toàn thể nhân loại.
73. Thiên Chúa đã tự mặc khải trọn vẹn khi sai chính Con Ngài đến trần gian; nơi Chúa Con, Thiên Chúa đã thiết lập Giao ước của Ngài đến muôn đời. Con Thiên Chúa là Lời tối hậu của Chúa Cha nói với nhân loại, sau Người, không còn một mặc khải nào khác.
Chú thích
2 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 2: AAS 58 (1966) 818.
3 X. Ep 1,4-5.
4 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 2: AAS 58 (1966) 818.
5 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses 3, 20, 2: SC 211,392 (PG 7,944); x. exempli gratia, Ibid. 3, 17, 1: SC 211,330 (PG 7,929); Ibid. 4, 12, 4: SC 100,518 (PG 7,1006); Ibid. 4, 21, 3: SC 100,684 (PG 7,1046).
6 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 3: AAS 58 (1966) 818.
7 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 3: AAS 58 (1966) 818.
8 Kinh nguyện Thánh Thể IV: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 467.
9 X. St 9,9.
10 X. St 10,20-31.
11 X. Cv 17,26-27.
12 X. Kn 10,5.
13 X. St 11,4-6.
14 X. Rm 1,18-25.
15 X. Lc 21,24.
16 X. St 14,18.
17 X. Dt 7,3.
18 X. Gl 3,8.
19 X. Rm 11,28.
20 X. Ga 11,52; 10,16.
21 X. Rm 11,17-18.24.
22 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 3: AAS 58 (1966) 818.
23 X. Xh 19,6.
24 Thứ Sáu Tuần Thánh, Cầu nguyện cho mọi người VI: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 254.
25 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Diễn văn tại Hội đường Do thái ở Rô-ma, (ngày 13/4/1986) 4: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, IX 1,1027.
26 X. Is 2,2-4.
27 X. Gr 31,31-34; Dt 10,16.
28 X. Ed 36.
29 X. Is 49,5-6; 53,11.
30 X. Sp 2,3.
31 X. Lc 1,38.
32 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 2: AAS 58 (1966) 818.
33 Thánh Gio-an Thánh giá, Subida del monte Carmelo, 2, 22, 3-5: Biblioteca Mistica Carmelitana, v. 11 (Burgos 1929) 184.
34 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 4: AAS 58 (1966) 819.
35 X. St 3,15.
36 X. St 9,16.
Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)
74. 851
Thiên Chúa “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4), nghĩa là, nhận biết Đức Ki-tô Giê-su.37 Vì vậy, Đức Ki-tô phải được rao giảng cho mọi dân tộc và mọi người, và mặc khải phải được loan truyền đến tận cùng thế giới.
“Những gì Thiên Chúa đã mặc khải để cứu rỗi muôn dân, Ngài đã ân cần sắp đặt để luôn được bảo toàn và lưu truyền nguyên vẹn cho mọi thế hệ.”38
I. Truyền thống các Tông Đồ (75-79)
75. 171
“Chúa Ki-tô, nơi Người, Thiên Chúa tối cao hoàn tất trọn vẹn mặc khải, đã truyền dạy các Tông Đồ rao giảng cho mọi người Tin Mừng đã được hứa trước qua miệng các tiên tri, và được chính Người thực hiện và công bố; các ngài rao giảng Tin Mừng như nguồn mọi chân lý cứu độ và luật lệ luân lý, đồng thời truyền thông cho họ các hồng ân của Thiên Chúa.”39
Lời rao giảng của các Tông Đồ… (76)
76. Theo mệnh lệnh của Chúa, việc lưu truyền Tin Mừng đã được thực hiện bằng hai cách:
– Bằng truyền khẩu: “một phần do các Tông Đồ: qua lời giảng dạy, gương lành và các định chế, các ngài đã truyền lại những gì đã nhận lãnh từ miệng Đức Ki-tô khi chung sống với Người và thấy Người hành động, hoặc đã học biết được nhờ Chúa Thánh Thần gợi ý”;
– Bằng văn tự: “một phần do chính các ngài và những người phụ tá các ngài đã viết lại sứ điệp cứu độ dưới sự linh hứng của cùng một Chúa Thánh Thần.”40
… được tiếp nối do những người kế nhiệm các Tông Đồ (77-79)
77. 861
“Để Tin Mừng được giữ gìn toàn vẹn và sống động mãi trong Hội Thánh, các Tông Đồ đã để lại những người kế vị là các Giám mục và ‘trao lại cho họ quyền giáo huấn của các ngài’.”41 Thật vậy, “những lời giảng dạy của các Tông Đồ được đặc biệt ghi lại trong các sách linh hứng, phải được bảo tồn và liên tục lưu truyền cho đến tận thế.”42
78. 174, 1124, 2651
Việc lưu truyền sống động này, được thực hiện trong Chúa Thánh Thần, được gọi là Thánh Truyền, để phân biệt với Thánh Kinh, mặc dù nó có liên hệ chặt chẽ với Thánh Kinh. Nhờ Thánh Truyền, “Hội Thánh, qua giáo lý, đời sống và việc phụng tự của mình, bảo tồn và lưu truyền cho mọi thế hệ tất cả thực chất của mình, và tất cả những gì mình tin.”43 “Lời các Thánh Giáo phụ chứng thực sự có mặt sống động của Thánh Truyền; và sự phong phú của Thánh Truyền đã thâm nhập vào thực hành và đời sống của Hội Thánh, một Hội Thánh luôn tin và cầu nguyện.”44
79. Như vậy, việc Chúa Cha truyền thông chính mình, nhờ Ngôi Lời và trong Chúa Thánh Thần, vẫn tiếp diễn và tác động trong Hội Thánh: “Thiên Chúa, Đấng xưa đã phán dạy, nay vẫn không ngừng ngỏ lời với Hiền Thê của Con yêu dấu mình; và Thánh Thần, Đấng làm cho tiếng nói sống động của Tin Mừng vang dội trong Hội Thánh, và nhờ Hội Thánh làm vang dội trong thế giới, hướng dẫn các tín hữu nhận biết toàn thể chân lý và làm cho lời Chúa Ki-tô tràn ngập lòng họ.”45
II. Tương quan giữa Thánh Truyền và Thánh Kinh (80-83)
Cùng một nguồn mạch… (80)
80. “Thánh Truyền và Thánh Kinh được nối kết và thông giao với nhau cách chặt chẽ. Thật thế, do cả hai đều phát xuất từ một nguồn mạch thần linh, có thể nói cả hai kết hợp thành một và cùng quy hướng về một mục đích.”46 Cả hai đều làm cho mầu nhiệm Đức Ki-tô được hiện diện và sinh hoa trái trong Hội Thánh, theo như chính Người đã hứa ở lại với các môn đệ “mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
… nhưng hai cách lưu truyền khác biệt (81-82)
81. 113
“Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa nói, xét theo tư cách được ghi chép lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần.” “Còn Thánh Truyền thì truyền đạt nguyên vẹn cho các đấng kế vị các Tông Đồ Lời Thiên Chúa đã được Chúa Ki-tô và Chúa Thánh Thần ký thác cho các Tông Đồ, để các đấng kế vị đó, nhờ Thần chân lý soi sáng, trung thành gìn giữ, trình bày và phổ biến Lời ấy bằng việc rao giảng.”47
82. Do đó, Hội Thánh, vì được ủy thác nhiệm vụ lưu truyền và giải thích mặc khải, “có được sự chắc chắn về tất cả các điều được mặc khải không chỉ nhờ riêng vào Thánh Kinh. Chính vì thế, cả Thánh Kinh lẫn Thánh Truyền đều phải được đón nhận và tôn kính bằng một tâm tình yêu mến và kính trọng như nhau.”48
Truyền thống Tông Đồ và các truyền thống trong Hội Thánh (83)
83. 1202, 2041, 2684
Truyền Thống mà chúng ta nói đây xuất phát từ các Tông Đồ và lưu truyền những gì chính các ngài đã lãnh nhận từ giáo huấn và gương mẫu của Chúa Giê-su cũng như những gì các ngài học được nhờ Chúa Thánh Thần. Thật vậy, thế hệ các Ki-tô hữu đầu tiên chưa có một Tân Ước thành văn, và chính bản văn Tân ước chứng thực tiến trình của Truyền Thống sống động này.
Chúng ta phải phân biệt “Truyền Thống các Tông Đồ” với “các truyền thống” thuộc các lãnh vực thần học, kỷ luật, phụng vụ hoặc sùng kính đã phát sinh theo thời gian trong các Giáo Hội địa phương. Đó là những hình thức riêng biệt, qua đó Thánh Truyền phổ quát đón nhận những lối diễn tả đã được thích nghi cho những địa phương khác nhau vào những thời đại khác nhau. Các truyền thống này có thể được giữ lại, sửa đổi hay thậm chí bị loại bỏ, dưới ánh sáng Truyền Thống các Tông Đồ, theo sự hướng dẫn của Huấn quyền Hội Thánh.
III. Giải nghĩa kho tàng đức tin (84-95)
Kho tàng đức tin được giao phó cho toàn thể Hội Thánh (84)
84. 857, 871, 2033
“Kho tàng đức tin” (Depositum fidei),49 chứa đựng trong Thánh Truyền và Thánh Kinh, đã được giao phó cho toàn thể Hội Thánh nhờ các Tông Đồ. “Khi gắn bó với kho tàng ấy, toàn thể dân thánh, quy tụ quanh các vị chủ chăn, chuyên cần với giáo huấn của các Tông Đồ, với tình hiệp thông, với việc bẻ bánh và kinh nguyện, nên giữa các thủ lãnh và các tín hữu có sự nhất trí lạ lùng trong việc nắm giữ, thực hành và tuyên xưng đức tin đã được truyền lại.”50
Huấn quyền Hội Thánh (85-87)
85. 888-892, 2032-2040
“Nhiệm vụ chính thức giải thích Lời Thiên Chúa đã được ghi chép hay truyền lại, nhiệm vụ này đã được ủy thác riêng cho Huấn quyền sống động của Hội Thánh, quyền này được thi hành nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô”,51 nghĩa là được ủy thác cho các Giám mục hiệp thông với vị kế nhiệm thánh Phê-rô, là Giám mục Rô-ma.
86. 688
“Tuy nhiên, Huấn quyền này không ở trên Lời Chúa, nhưng phục vụ Lời Chúa vì chỉ giảng dạy những điều đã được truyền lại; bởi vì do mệnh lệnh của Thiên Chúa và nhờ ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Huấn quyền kính mến lắng nghe, thành kính gìn giữ và trung thành trình bày Lời đó, đồng thời từ kho tàng đức tin duy nhất ấy, Huấn quyền kín múc ra tất cả mọi điều mà đề nghị cho giáo dân tin như là những điều đã được Thiên Chúa mặc khải.”52
87. 1548, 2037
Vì ghi nhớ lời Đức Ki-tô đã nói với các Tông Đồ: “Ai nghe anh em là nghe Thầy” (Lc 10,16),53 các tín hữu ngoan ngoãn nhận lãnh các giáo huấn và chỉ thị mà các mục tử ban cho họ dưới những hình thức khác nhau.
Các tín điều đức tin (88-90)
88. 888-892, 2032-2040
Huấn quyền Hội Thánh thực thi trọn vẹn quyền bính nhận từ Đức Ki-tô khi ấn định các tín điều, tức là khi công bố, dưới hình thức buộc dân Ki-tô Giáo phải tin, những chân lý được chứa đựng trong mặc khải của Thiên Chúa, hoặc cả khi công bố một cách dứt khoát những chân lý có liên hệ tất yếu với các chân lý đó.
89. 2625
Giữa đời sống thiêng liêng của chúng ta với các tín điều có một mối liên hệ chặt chẽ. Tín điều là những ánh sáng trên con đường đức tin của chúng ta, soi sáng và làm cho con đường đức tin ấy được an toàn. Ngược lại, nếu chúng ta sống ngay thẳng, trí tuệ và tâm hồn chúng ta sẽ mở rộng đón nhận ánh sáng các tín điều.54
90. 114, 158, 234
Những mối dây liên kết lẫn nhau và sự gắn bó chặt chẽ giữa các tín điều có thể gặp thấy trong toàn bộ mặc khải về mầu nhiệm Đức Ki-tô.55 Phải nhớ rằng “có một trật tự hoặc ‘một phẩm trật’ các chân lý của giáo lý Công giáo, vì tương quan khác nhau của chúng với nền tảng đức tin Ki-tô Giáo.”56
Cảm thức siêu nhiên về đức tin (91-93)
91. 737
Mọi Ki-tô hữu đều tham dự vào ơn hiểu biết và việc lưu truyền chân lý mặc khải. Họ được xức dầu bằng Chúa Thánh Thần, là Đấng dạy dỗ họ57 và dẫn họ “tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13).
92. 785
“Toàn thể các tín hữu… không thể sai lầm trong đức tin. Họ biểu lộ phẩm tính đặc biệt ấy nhờ cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể dân Chúa, khi ‘từ các Giám mục cho đến những giáo dân rốt hết’ đều đồng ý cách phổ quát về những điều liên quan đến đức tin và phong hóa.”58
93. 889
“Thật vậy, nhờ cảm thức về đức tin được Thánh Thần chân lý khơi dậy và nâng đỡ, và dưới sự hướng dẫn của Huấn quyền, dân Thiên Chúa gắn bó cách kiên trì với đức tin đã được lưu truyền duy chỉ một lần cho các Thánh, hiểu biết đức tin ấy cách sâu sắc hơn nhờ suy xét đúng, và áp dụng đức tin ấy cách đầy đủ hơn trong đời sống.”59
Sự tăng trưởng trong hiểu biết về đức tin (94-95)
94. 66, 2651, 2038, 2518
Nhờ Chúa Thánh Thần trợ giúp, sự hiểu biết về các sự việc và các lời nói thuộc kho tàng đức tin có thể được tiến triển trong đời sống Hội Thánh:
– “hoặc nhờ các tín hữu chiêm ngưỡng và học hỏi, khi đã ghi nhớ các điều đó trong lòng”,60 đặc biệt “việc nghiên cứu thần học giúp đào sâu hiểu biết về chân lý được mặc khải”;61
– “hoặc nhờ họ đã thông hiểu những điều thiêng liêng họ cảm nghiệm được”;62 “Lời Chúa lớn lên cùng với người đọc”;63
Bài này đã được xem 5641 lần!