VII. Bí tích Thánh Thể – “Bảo chứng cho vinh quang tương lai” (1402-1405)
1402. 1323, 1130
Trong một kinh nguyện cổ xưa, Hội Thánh tung hô mầu nhiệm Thánh Thể như sau: “Ôi Tiệc Thánh, trong đó Đức Ki-tô được rước lấy làm lương thực, việc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Người được nhắc lại, tâm trí được tràn đầy ân sủng, và bảo chứng cho vinh quang mai sau được ban cho chúng ta.”245 Nếu bí tích Thánh Thể là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa, nếu nhờ việc rước lễ tại bàn thờ mà chúng ta được “tràn đầy ân phúc bởi trời”,246 thì bí tích Thánh Thể cũng là sự tham dự trước vào vinh quang thiên quốc.
1403. 671
Trong bữa Tiệc ly, chính Chúa hướng các môn đệ Người đến sự hoàn tất lễ Vượt Qua trong Nước Thiên Chúa: “Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26,29).247 Mỗi lần cử hành bí tích Thánh Thể, Hội Thánh nhớ lại lời hứa này và hướng trông “Đấng đang đến” (Kh 1,4). Trong kinh nguyện, Hội Thánh kêu cầu Người ngự đến: “Marana tha” (1 Cr 16,22), “Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến” (Kh 22,20), “Ước gì ân sủng của Ngài đến và trần gian này qua đi.”248
1404. 1041, 1028
Hội Thánh biết rằng giờ đây Chúa đã đến trong bí tích Thánh Thể của Người, và Người ở đó giữa chúng ta. Tuy nhiên, sự hiện diện này còn bị che phủ. Chính vì vậy, chúng ta cử hành bí tích Thánh Thể “đang khi chúng con mong đợi niềm hy vọng hồng phúc và ngày trở lại của Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng con”,249 trong khi chúng ta khẩn nguyện được “cùng nhau tận hưởng vinh quang Cha muôn đời, khi Cha lau sạch nước mắt chúng con, vì khi được thấy tường tận Cha là Thiên Chúa chúng con, thì muôn đời chúng con sẽ trở nên giống Cha và sẽ ca ngợi Cha khôn cùng.”250
1405. 1042, 1000
Về niềm hy vọng lớn lao này, niềm hy vọng về trời mới đất mới, nơi công lý lưu ngụ cách chắc chắn,251 chúng ta không có bảo chứng nào vững chắc hơn và dấu chỉ nào được biểu lộ rõ ràng hơn, là bí tích Thánh Thể. Thật vậy, mỗi khi mầu nhiệm này được cử hành, thì “công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện”252 và “chúng ta bẻ cùng một tấm bánh, là phương dược trường sinh bất tử, và của ăn để chúng ta không chết, nhưng đem lại sự sống muôn đời trong Chúa Giê-su Ki-tô.”253
Tóm lược (1406-1419)
1406. Chúa Giê-su nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời… Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời… Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,51.54.56).
1407. Bí tích Thánh Thể là trung tâm và tột đỉnh của đời sống Hội Thánh, vì trong bí tích này, Đức Ki-tô liên kết Hội Thánh và tất cả các chi thể của Người vào hy tế chúc tụng và tạ ơn được dâng lên Chúa Cha trên thập giá một lần cho mãi mãi. Qua hy tế này, Người tuôn đổ các ân sủng cứu độ trên Thân Thể của Người là Hội Thánh.
1408. Việc cử hành Thánh Lễ luôn bao gồm: việc công bố Lời Chúa; việc tạ ơn Thiên Chúa Cha vì mọi ơn lành, nhất là vì Ngài đã ban Con của Ngài cho chúng ta; việc thánh hiến bánh rượu và việc tham dự vào bàn tiệc phụng vụ nhờ lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa. Các yếu tố này kết thành một hành vi phụng tự duy nhất.
1409. Bí tích Thánh Thể là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Ki-tô: nghĩa là công trình cứu độ được thực hiện qua đời sống, cái Chết và sự Phục sinh của Đức Ki-tô. Công trình này được hành động phụng vụ làm cho hiện diện.
1410. Đức Ki-tô, vị thượng tế đời đời của Giao Ước Mới, Đấng đang hoạt động nhờ thừa tác vụ của các tư tế, dâng hy tế Thánh Thể. Cũng chính Đức Ki-tô, Đấng thật sự hiện diện trong hình bánh rượu, là lễ vật của hy tế Thánh Thể.
1411. Chỉ các tư tế đã được phong chức thánh thành sự mới có quyền chủ tọa thánh lễ và thánh hiến (truyền phép) để bánh và rượu trở thành Mình và Máu Thánh Chúa.
1412. Dấu chỉ chính yếu của bí tích Thánh Thể là bánh mì và rượu nho. Lời chúc lành của Chúa Thánh Thần được khẩn cầu xuống trên bánh và rượu này và vị tư tế đọc lời thánh hiến (truyền phép) được Chúa Giê-su nói trong bữa Tiệc ly: “Này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con… Này là Chén Máu Thầy…”
1413. Nhờ lời thánh hiến (truyền phép), đã có sự biến đổi bản thể bánh và rượu thành Mình và Máu Thánh Chúa. Trong hình bánh rượu đã được truyền phép, chính Đức Ki-tô, hằng sống và vinh hiển, hiện diện cách đích thực, thật sự và theo bản thể, với trọn mình, máu, linh hồn và thần tính của Người.254
1414. Với tính cách là một hy tế, bí tích Thánh Thể được dâng lên để đền tội cho người sống cũng như kẻ chết và để đạt được những ơn lành hồn xác từ Thiên Chúa.
1415. Ai muốn đón nhận Đức Ki-tô qua việc hiệp lễ, phải ở trong tình trạng ân sủng. Ai biết mình đang mắc tội trọng, không được rước lễ nếu chưa lãnh nhận ơn tha tội trong bí tích Hòa Giải.
1416. Việc rước Mình và Máu Thánh Đức Ki-tô gia tăng sự kết hợp của người rước lễ với Chúa, tha thứ cho họ các tội nhẹ và gìn giữ họ khỏi các tội trọng. Vì việc rước lễ củng cố mối liên hệ tình yêu giữa người rước lễ với Đức Ki-tô, nên việc lãnh nhận bí tích này cũng củng cố sự hiệp nhất của Hội Thánh là Thân Thể mầu nhiệm của Đức Ki-tô.
1417. Hội Thánh tha thiết khuyên tín hữu nên rước lễ mỗi khi tham dự Thánh lễ. Hội Thánh buộc tín hữu rước lễ mỗi năm ít là một lần.
1418. Vì Đức Ki-tô hiện diện thật sự trong bí tích bàn thờ, nên chúng ta phải tôn vinh Người bằng một phụng tự tôn thờ. “Việc viếng Thánh Thể là một bằng chứng bày tỏ lòng biết ơn, một dấu chỉ tình yêu và một bổn phận thờ lạy đối với Đức Ki-tô, Chúa chúng ta.”255
1419. Trước khi lìa bỏ thế gian mà về cùng Cha, Đức Ki-tô ban cho chúng ta, trong bí tích Thánh Thể, bảo chứng vinh quang nơi Người: việc tham dự Thánh lễ uốn lòng chúng ta nên giống trái tim Chúa, nâng đỡ sức lực chúng ta trên đường lữ thứ trần gian, làm cho chúng ta khao khát cuộc sống vĩnh cửu và ngay từ bây giờ kết hợp chúng ta với Hội Thánh trên trời, với Đức Trinh Nữ diễm phúc và với tất cả các Thánh.
Chú thích
145 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 47: AAS 56 (1964) 113.
146 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965) 15.
147 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 5: AAS 58 (1966) 997.
148 Thánh bộ Nghi lễ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, 6: AAS 59 (1967) 545.
149 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 4, 18, 5: SC 100 (PG 7,1028).
150 X. 1 Cr 11,20.
151 X. Kh 19,9.
152 X. Mt 14,19; 15,36; Mc 8,6.19.
153 X. Mt 26,26; 1 Cr 11,24.
154 X. Lc 24,13-35.
155 X. Cv 2,42.46; 20,7.11.
156 X. 1 Cr 10,16-17.
157 X. 1 Cr 11,17-34.
158 X. Tv 116,13.17.
159 X. 1 Pr 2,5.
160 X. Ml 1,11.
161 X. 1 Cr 10,16-17.
162 X. Constitutiones apostolicae, 8,13.12: SC 336,208 (Funk, Didaschalia et Constitutiones Apostolorum, 1, 516); Đi-đa-kê, 9, 5: SC 248,178 (Funk, Patres apostolici, 1, 22); Ibid., 10,6: SC 248,180 (Funk, Patres apostolici, 1, 24).
163 Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Ephesios, 20, 2: SC 10bis, 76 (Funk 1,230).
164 X. Tv 104,13-15.
165 X. Kinh nguyện Thánh Thể I còn gọi là Lễ Quy Rô-ma, 95: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 453.
166 X. Đnl 8,3.
167 X. Mt 14,13-21; 15,32-39.
168 X. Ga 2,11.
169 X. Mc 14,25.
170 X. Ga 13,1-17.
171 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 22a, Doctrina de ss. Missae Sacrificio, c. 1: DS 1740.
172 X. Ga 6.
173 X. Mt 26,17-29; Mc 14,12-25; 1 Cr 11,23-25.
174 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 1 : AAS 58 (1966) 947.
175 Thánh Giustinô, Apologia, 1, 67 : CA 1,184-186 (PG 6,429).
176 Thánh Giustinô, Apologia, 1, 65 : CA 1,176-180 (PG 6,428).
177 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 56: AAS 56 (1964) 115.
178 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 21: AAS 58 (1966) 827.
179 X. Lc 24,13-35.
180 X. 1 Tx 2,13.
181 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 4, 18, 4: SC 100,606 (PG 7,1027); x. Ml 1,11.
182 X. 1 Cr 16,1.
183 X. 2 Cr 8,9.
184 Thánh Giustinô, Apologia, 1, 67 : CA 1,186-188 (PG 6,429).
185 X. Kinh nguyện Thánh Thể I còn gọi là Lễ Quy Rô-ma, 90: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 451.
186 X. Thánh Giustinô, Apologia, 1, 65: CA 1,180 (PG 6,428).
187 Thánh Giustinô, Apologia, 1, 66: CA 1,180 (PG 6,428).
188 X. Xh 13,3.
189 X. Dt 7,25-27.
190 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6.
191 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 22a, Doctrina de ss. Missae sacrificio, c.1: DS 1740.
192 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 22a, Doctrina de ss. Missae sacrificio, c. 2: DS 1743.
193 Ibid.
194 Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Smyrnaeos, 8, 1: SC 10bis, 138 (Funk 1,282).
195 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, 2: AAS 58 (1966) 993.
196 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 22a, Doctrina de ss. Missae sacrificio, c. 2: DS 1743.
197 Thánh Augustinô, Confessiones, 9, 11, 27 : CCL 27,149 (PL 32,775); lời thánh nữ Mônica, trước khi chết, trối cho anh em thánh Augustinô.
198 Thánh Cyrillô thành Giê-ru-sa-lem, Catecheses mystagogicae, 5, 9-10: SC 126,158-160 (PG 30,1116-1117).
199 Thánh Augustinô, De civitate Dei, 10,6: CSEL 40/1, 456 (PL 41,284).
200 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
201 X. Mt 25,31-46.
202 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 7: AAS 56 (1964) 100-101.
203 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 73, a. 3, c: Ed. Leon. 12, 140.
204 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 13a, Decretum de ss. Eucharistia, c. 1: DS 1651.
205 ĐGH Phao-lô VI, Thông điệp Mysterium Fidei, 39: AAS 57 (1965) 764.
206 Thánh Gio-an Kim Khẩu, De proditione Iudae homilia, 1, 6: PG 49,380.
207 Thánh Ambrôsiô, De mysteriis, 9, 50: CSEL 73,110 (PL 16,405).
208 Ibid., 9, 52: CSEL 73,112 (PL 16,407).
209 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 13a, Decretum de ss. Eucharistia, c. 4: DS 1642.
210 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 13a, Decretum de ss. Eucharistia, c. 3: DS 1641.
211 ĐGH Phao-lô VI, Thông điệp Mysterium Fidei, 56: AAS 57 (1965) 769.
212 X. Gl 2,20.
213 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thư Dominicae Cenae, 3: AAS 72 (1980) 119; x. Enchiridion Vaticanum, 7, 177.
214 ĐGH Phao-lô VI, Thông điệp Mysterium Fidei, 18: AAS 57 (1965) 757; x. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 75, a. 1, c: Ed. Leon. 12, 156; Thánh Cyrillô thành A-lê-xan-ri-a, Commentarius in Lucam, 22,19: PG 72,912.
215 AHMA 50,589.
216 Thánh Ambrôsiô, De sacramentis, 5, 7: CSEL 73,61 (PL 16,447).
217 Thánh Ambrôsiô, De sacramentis, 4, 7: CSEL 73,49 (PL 16,437).
218 Kinh nguyện Thánh Thể I hay Lễ Quy Rô-ma, 94: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 453.
219 X. Mt 8,8.
220 Nghi thức Hiệp lễ, 133: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 474.
221 Liturgia Byzantina. Anaphora Iohannis Chrysostomi, Prex ante Communionem: F.E. Brightman, Liturgies Eastern and Western (Oxford 1896) 394 (PG 63,920).
222 X. Bộ Giáo Luật, điều 919.
223 X. Bộ Giáo Luật, các điều 916-917: AAS 75 (1983 II) 165-166.
224 Trong cùng một ngày, các tín hữu có thể rước lễ hai lần, và chỉ hai lần mà thôi: Pontificia Commissio Codici Iuris Canonici authentice interpretando, Responsa ad proposita dubia, 1 : AAS 76 (1984), 746.
225 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 55: AAS 56 (1964) 115.
226 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Orientalium Ecclesiarum, 15: AAS 57 (1965) 81.
227 X. Bộ Giáo Luật, điều 920.
228 Quy chế tổng quát Sách Lễ Rô-ma, 240: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 68.
229 Fanqýth, Breviarium iuxta ritum Ecclesiae Antiochenae Syrorum, v. 1 (Mossul 1886) 237a-b.
230 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 5: AAS 58 (1966) 997.
231 X. 1 Cr 11,26.
232 Thánh Ambrôsiô, De sacramentis, 4, 28: CSEL 73,57-58 (PL 16,446).
233 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 13a, Decretum de ss. Eucharistia, c. 2: DS 1638.
234 Thánh Fulgentiô Ruspensê, Contra gesta Fabiani, 28, 17: CCL 19A, 813-814 (PL 65,789).
235 X. 1 Cr 12,13.
236 Thánh Augustinô, Sermo 272: PL 38,1247.
237 X. Mt 25,40.
238 Thánh Gio-an Kim Khẩu, In epistulam I ad Corinthios, homilia 27, 5: PG 61,230.
239 Thánh Augustinô, In Iohannis evangelium tractatus, 26, 13: CCL 36,266 (PL 35,1613); x. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 47: AAS 56 (1964) 113.
240 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 15 : AAS 57 (1965) 102.
241 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 15: AAS 57 (1965) 102; x. Bộ Giáo Luật, điều 844,3.
242 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 22: AAS 57 (1965) 106.
243 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 22: AAS 57 (1965) 106.
244 X. Bộ Giáo Luật, điều 844,4.
245 Lễ Trọng kính Mình và Máu thánh Chúa Ki-tô, Điệp ca kinh “Magnificat” Kinh Chiều II: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v. 3 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 502.
246 Kinh nguyện Thánh Thể I hay Lễ Quy Rô-ma, 96: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 453.
247 X. Lc 22,18; Mc 14,25.
248 Didaché, 10, 6: SC 248,180 (Funk, Patres apostolici, 1, 24).
249 Nghi thức Hiệp lễ, 126 [Lời nguyện sau kinh Lạy Cha]: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 472; x. Tt 2,13.
250 Kinh nguyện Thánh Thể III, 116: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 465.
251 X. 2 Pr 3,13.
252 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6.
253 Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Ephesios, 20, 2: SC 10bis, 76 (Funk 1,230).
254 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 13a, Decretum de ss. Eucharistia, c. 3: DS 1640; Ibid., canon 1: DS 1651.
255 ĐGH Phao-lô VI, Thông điệp Mysterium fidei: AAS 57 (1965) 771.
CHƯƠNG II: CÁC BÍ TÍCH CHỮA LÀNH (1420-1532)
1420. Nhờ các bí tích khai tâm Ki-tô Giáo, con người lãnh nhận được sự sống mới trong Đức Ki-tô. Nhưng chúng ta mang sự sống này “trong những bình sành” (2 Cr 4,7). Sự sống này hiện nay còn “đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa” (Cl 3,3). Chúng ta còn sống trong ngôi nhà ở dưới đất của chúng ta,1 vẫn còn gánh chịu khổ đau, bệnh tật và cái chết. Sự sống mới này của con cái Thiên Chúa có thể bị suy yếu và thậm chí bị mất đi do tội lỗi.
1421. Chúa Giê-su Ki-tô, vị thầy thuốc chữa lành linh hồn và thân xác chúng ta, Đấng đã tha tội cho người bại liệt và ban ơn cứu độ cho cả thân xác của người ấy,2 đã muốn Hội Thánh Người, bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, tiếp tục công cuộc chữa lành và cứu độ của Người, cả cho các chi thể của Người. Đó là mục đích của hai bí tích chữa lành: bí tích Thống Hối và bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân.
Đề mục
Mục 4: Bí tích Thống Hối và Giao Hòa (1422-1498)
Mục 5: Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân (1499-1532)
Chú thích
1 X. 2 Cr 5,1.
2 X. Mc 2,1-12.
Mục 4: Bí tích Thống Hối và Giao Hòa (1422-1498)
1422. 980
“Những ai đến với bí tích Thống Hối đều nhận được, do lòng khoan dung của Thiên Chúa, sự tha thứ cho việc họ đã xúc phạm đến Ngài và đồng thời, được giao hòa với Hội Thánh, vốn đã bị tội lỗi làm tổn thương, nhưng vẫn nỗ lực lấy tình yêu, gương mẫu và kinh nguyện mà làm cho họ được hối cải.”3
I. Bí tích này được gọi như thế nào? (1423-1424)
1423. 1989, 1440
Bí tích này được gọi là bí tích của sự hối cải: bởi vì nó thực hiện cách bí tích lời kêu gọi hối cải của Chúa Giê-su,4 sự trở về với Chúa Cha, Đấng mà người ta đã lìa xa khi phạm tội.5
Bí tích này được gọi là bí tích Thống Hối, bởi vì nó cống hiến một tiến trình hối cải, có chiều kích cá nhân và giáo hội, cho tội nhân Ki-tô hữu thống hối và đền tội.
1424. 1456, 1449, 1442
Bí tích này được gọi là bí tích xưng tội: bởi vì việc thú nhận, xưng thú các tội lỗi trước một tư tế là yếu tố căn bản của bí tích này. Theo một ý nghĩa thâm sâu hơn, bí tích này cũng là một việc “tuyên xưng”, nhận biết và ca ngợi sự thánh thiện của Thiên Chúa và lòng khoan dung của Ngài đối với con người là tội nhân.
Bí tích này được gọi là bí tích ban ơn tha thứ, vì nhờ lời xá giải bí tích của vị tư tế, Thiên Chúa ban cho hối nhân ơn “tha thứ và bình an.”6
Bí tích này được gọi là bí tích Giao Hòa, vì ban cho tội nhân tình yêu của Thiên Chúa, Đấng giao hoà: “Anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa” (2 Cr 5,20). Ai sống bởi tình yêu thương xót của Thiên Chúa, sẽ sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa mời gọi: “Hãy đi làm hòa với người anh em ấy đã” (Mt 5,24).
II. Tại sao cần bí tích Giao Hòa sau khi đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội? (1425-1426)
1425. 1263, 2838
“Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta” (1 Cr 6,11). Phải ý thức sự cao cả của hồng ân Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trong các bí tích khai tâm Ki-tô Giáo, thì mới hiểu được rằng tội lỗi là một điều đối nghịch lại với một người đã mặc lấy Đức Ki-tô.7 Nhưng thánh Gio-an Tông Đồ đã nói: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1,8). Chính Chúa cũng đã dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin tha tội cho chúng con” (Lc 11,4), và Người kết hợp việc chúng ta tha thứ cho nhau những xúc phạm lẫn nhau với ơn Thiên Chúa tha thứ các tội lỗi chúng ta.
1426. 405, 978, 1264
Việc hối cải trở về với Đức Ki-tô, việc tái sinh trong bí tích Rửa Tội, hồng ân của Chúa Thánh Thần, Mình và Máu Đức Ki-tô được lãnh nhận làm lương thực, làm cho chúng ta trở nên “tinh tuyền thánh thiện trước thánh nhan Thiên Chúa” (Ep 1,4), cũng như chính Hội Thánh, là Hiền Thê của Đức Ki-tô, cũng “thánh thiện và tinh tuyền” trước mặt Người (Ep 5,27). Tuy nhiên, sự sống mới được lãnh nhận trong cuộc khai tâm Ki-tô Giáo không tiêu hủy sự mỏng giòn và yếu đuối của bản tính con người, cũng như sự hướng chiều theo tội lỗi, mà truyền thống gọi là dục vọng (concupiscentia), vốn tồn tại nơi những người đã chịu Phép Rửa, để với sự trợ lực của ân sủng của Đức Ki-tô, họ vượt qua được những thử thách trong cuộc chiến đấu của đời sống Ki-tô hữu.8 Đây là cuộc chiến đấu của sự hối cải nhằm đạt tới sự thánh thiện và đời sống vĩnh cửu mà Chúa không ngừng mời gọi chúng ta.9
III. Sự hối cải của những người đã chịu Phép Rửa (1427-1429)
1427. 541, 1226
Chúa Giê-su kêu gọi hối cải. Lời kêu gọi này là một phần cốt yếu của việc loan báo Nước Thiên Chúa: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Trong việc rao giảng của Hội Thánh, lời kêu gọi này trước hết nhằm đến những người chưa biết Đức Ki-tô và Tin Mừng của Người. Như vậy, bí tích Rửa Tội là vị trí đầu tiên và căn bản của việc hối cải. Chính nhờ tin vào Tin Mừng và nhờ bí tích Rửa Tội10 mà người ta từ bỏ sự dữ và đạt được ơn cứu độ, nghĩa là được ơn tha thứ mọi tội lỗi và được hưởng hồng ân sự sống mới.
1428. 1036, 853, 1996
Lời kêu gọi hối cải của Đức Ki-tô vẫn tiếp tục vang vọng trong đời sống các Ki-tô hữu. Cuộc hối cải thứ hai này là một nhiệm vụ liên tục của toàn thể Hội Thánh vì “mang trong lòng mình những tội nhân, vừa thánh thiện vừa luôn cần được thanh luyện, Hội Thánh phải không ngừng thống hối và canh tân.”11 Nỗ lực hối cải này không chỉ là công việc của con người. Việc thống hối là hành động của một “tâm hồn tan nát”12 được ân sủng lôi kéo và thúc đẩy,13 để đáp lại tình yêu thương xót của Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước.14
1429. Có thể lấy cuộc hối cải của thánh Phê-rô, sau khi chối Thầy mình ba lần, làm bằng chứng cho điều đó. Cái nhìn của lòng thương xót vô biên của Chúa Giê-su khiến ông khóc lóc thống hối15 và, sau khi Chúa sống lại, ông đã ba lần khẳng định tình yêu của ông đối với Người.16 Cuộc hối cải thứ hai cũng mang chiều kích cộng đoàn. Điều này được thấy rõ trong lời kêu gọi của Chúa với toàn thể Hội Thánh: “Hãy hối cải!” (Kh 2,5.16).
Thánh Ambrôsiô nói về hai cuộc hối cải: “Hội Thánh có nước và nước mắt, nước của bí tích Rửa Tội, và nước mắt của bí tích Thống Hối.”17
IV. Thống hối nội tâm (1430-1433)
1430. 1098
Cũng như các tiên tri thuở trước, lời kêu gọi hối cải và thống hối của Chúa Giê-su không nhằm trước tiên đến những việc bên ngoài, “mặc áo vải thô, rắc tro trên đầu”, giữ chay và khổ chế, nhưng nhằm đến sự hối cải tâm hồn, sự thống hối nội tâm. Nếu không có sự hối cải nội tâm, các việc thống hối bên ngoài sẽ vô hiệu và dối trá; ngược lại, sự hối cải nội tâm thúc đẩy diễn tả tâm tình ấy bằøng những dấu chỉ hữu hình, bằng những cử chỉ và những việc làm thống hối.18
1431. 1451, 368
Thống hối nội tâm là định hướng mới cách triệt để cho cả cuộc đời, là trở về, là trở lại cùng Thiên Chúa với cả tâm hồn, đoạn tuyệt với tội lỗi, quay lưng với sự dữ, và ghê tởm những hành động xấu xa chúng ta đã phạm. Đồng thời thống hối nội tâm cũng bao gồm ước muốn và quyết tâm thay đổi đời sống, với niềm hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa và lòng tin tưởng vào sự trợ giúp của ân sủng của Ngài. Cuộc hối cải nội tâm này được kèm theo bằng sự đau khổ và buồn phiền hữu ích được các Giáo phụ gọi là nỗi thống khổ của tâm hồn, sự cắn rứt của trái tim.19
1432. 1989
Lòng người nặng nề và cứng cỏi. Con người phải được Thiên Chúa ban cho một trái tim mới.20 Hối cải trước hết là công trình của ân sủng của Thiên Chúa, Đấng làm cho lòng chúng ta trở lại với Ngài: “Xin đưa chúng con về với Ngài, lạy Chúa, để chúng con trở về” (Ac 5,21). Thiên Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta bắt đầu lại. Tâm hồn chúng ta, một khi khám phá ra sự cao cả của tình yêu Thiên Chúa, sẽ bị chấn động vì sự khủng khiếp và nặng nề của tội lỗi và bắt đầu sợ không dám phạm tội xúc phạm Thiên Chúa và sợ bị xa lìa Ngài. Lòng người hối cải, khi nhìn lên Đấng đã bị tội lỗi chúng ta đâm thâu.21
“Hãy chiêm ngắm Máu Đức Ki-tô và nhận biết rằng Máu ấy quý giá biết bao đối với Thiên Chúa là Cha Người, Máu ấy, khi đổ ra để cứu độ chúng ta, đã mang lại cho toàn thế giới ơn thống hối.”22
1433. 729, 692, 1848
Khởi từ cuộc Vượt Qua, Chúa Thánh Thần tố cáo thế gian về tội lỗi, vì thế gian đã không tin vào Đấng23 Chúa Cha đã sai đến. Nhưng cũng chính Chúa Thánh Thần, Đấng tố cáo tội lỗi, lại là Đấng An Ủi,24 Đấng ban cho tâm hồn con người ân sủng để họ thống hối và hối cải.25
V. Nhiều hình thức thống hối trong đời sống Ki-tô hữu (1434-1439)
1434. 1969
Việc thống hối nội tâm của Ki-tô hữu có thể được biểu lộ bằng nhiều cách rất khác nhau. Kinh Thánh và các Giáo phụ nhấn mạnh nhất ba hình thức: giữ chay, cầu nguyện và bố thí26 là những cách diễn tả sự hối cải đối với bản thân, đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Bên cạnh sự thanh tẩy triệt để bằng bí tích Rửa Tội hoặc bằng việc tử đạo, các ngài còn nói đến những phương thế để đạt được ơn tha thứ tội lỗi, đó là cố gắng giao hòa với anh em, những giọt lệ thống hối, chăm lo cho ơn cứu độ của tha nhân,27 khẩn cầu các thánh và thực hành bác ái, “vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi” (1 Pr 4,8).
1435. Việc hối cải được thực hiện trong đời sống hằng ngày bằng những hành động giao hòa, quan tâm đến người nghèo, thực thi và bảo vệ công lý và lẽ phải,28 bằng việc thú nhận lỗi lầm với anh em, sửa lỗi cho nhau, kiểm điểm đời sống, tự vấn lương tâm, linh hướng, chấp nhận đau khổ, kiên trì khi bị bách hại vì lẽ công chính. Con đường chắc chắn nhất của sự thống hối là vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa Giê-su.29
1436. 1394
Bí tích Thánh Thể và bí tích Thống Hối. Việc hối cải và thống hối hằng ngày gặp được nguồn mạch và lương thực của mình nơi bí tích Thánh Thể, bởi vì nơi Thánh Thể, hy lễ của Đức Ki-tô hiện diện, hy lễ này giao hòa chúng ta với Thiên Chúa; nhờ bí tích Thánh Thể, những ai sống bởi sức sống của Đức Ki-tô sẽ được nuôi dưỡng và được bổ sức; bí tích này là “thuốc giải độc, giải thoát chúng ta khỏi các lỗi phạm hằng ngày và gìn giữ chúng ta khỏi các tội trọng.”30
Bài này đã được xem 5608 lần!