1437. Việc đọc Kinh Thánh, đọc các Giờ Kinh phụng vụ và kinh Lạy Cha, bất cứ hành vi chân thành nào trong việc phụng tự và đạo đức, đều khơi dậy nơi chúng ta tinh thần hối cải và thống hối và góp phần đem lại ơn tha tội cho chúng ta.
1438. 540, 2043
Những thời gian và những ngày thống hối trong năm phụng vụ (mùa Chay, mỗi ngày thứ sáu tưởng niệm Chúa chịu chết), là những thời điểm đặc biệt để thực hành việc thống hối trong Hội Thánh.31 Những thời gian này đặc biệt thích hợp cho các cuộc linh thao, các buổi cử hành phụng vụ thống hối, các cuộc hành hương thống hối, những việc hãm mình tự nguyện như giữ chay và bố thí, chia sẻ huynh đệ (các công tác từ thiện và truyền giáo).
1439. 545
Chúa Giê-su đã mô tả tiến trình hối cải và thống hối một cách tuyệt vời trong dụ ngôn quen được gọi là dụ ngôn “Đứa con hoang đàng” mà trọng tâm của nó là “Người cha nhân hậu”:32 sự quyến rũ của một thứ tự do sai lạc, việc rời bỏ nhà cha; sự đau khổ cùng cực sau khi phung phí tất cả tài sản; sự nhục nhã sâu xa khi thấy mình phải đi chăn heo, và còn tệ hơn nữa, ước muốn ăn cám heo mà không được; việc suy nghĩ lại về những điều thiện hảo đã bị đánh mất; sự hối hận và quyết định nhận mình có lỗi trước mặt cha; con đường trở về; việc đón nhận bao dung của người cha; niềm vui của người cha: Đó là những nét tiêu biểu của tiến trình hối cải. Áo đẹp, nhẫn và tiệc mừng là những biểu tượng của một đời sống mới, thanh sạch. xứng đáng, tràn ngập niềm vui, đó là đời sống của người trở về cùng Thiên Chúa, giữa lòng gia đình của Ngài, là Hội Thánh. Chỉ trái tim Đức Ki-tô, Đấng thấu suốt các tầng sâu thẳm của tình yêu của Cha Người, mới có thể mặc khải cho chúng ta tận đáy lòng thương xót của Thiên Chúa một cách đơn sơ và đầy vẻ đẹp như vậy.
VI. Bí tích Thống Hối và Giao Hòa (1440-1449)
1440. 1850
Trước hết, tội là sự xúc phạm đến Thiên Chúa, là cắt đứt sự hiệp thông với Ngài. Đồng thời tội làm tổn thương cho sự hiệp thông với Hội Thánh. Vì vậy, việc hối cải vừa mang lại ơn tha thứ của Thiên Chúa và đồng thời, vừa mang lại sự giao hòa với Hội Thánh, đó là điều bí tích Thống Hối và Giao hòa diễn tả và thực hiện trong phụng vụ.33
Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội (1441-1442)
1441. 270, 431, 589
Chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội.34 Bởi vì Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, nên Người nói về mình: “Ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội” (Mc 2,10), và Người thực thi quyền thần linh này: “Con đã được tha tội rồi” (Mc 2,5).35 Hơn nữa, dựa vào quyền bính thần linh của mình, Đức Ki-tô còn ban quyền đó cho những con người36 để họ thực thi quyền tha tội nhân danh Người.
1442. 983
Đức Ki-tô đã muốn toàn thể Hội Thánh của Người, trong kinh nguyện, đời sống và các hoạt động của mình, là dấu chỉ và dụng cụ cho ơn tha thứ và giao hòa mà Người đã thủ đắc cho chúng ta, bằng máu châu báu của Người. Tuy nhiên, Người đã ủy thác việc thực thi quyền tha tội cho thừa tác vụ Tông Đồ. Chính thừa tác vụ này đã lãnh nhận “chức vụ giao hoà” (2 Cr 5,18). Vị Tông Đồ được sai đi nhân danh Đức Ki-tô; và chính Thiên Chúa, qua vị Tông Đồ, khuyên bảo và nài xin: “Hãy làm hòa với Thiên Chúa” (2 Cr 5,20).
Giao hòa với Hội Thánh (1443-1445)
1443. 545
Trong đời sống công khai của Người, Chúa Giê-su không những đã tha tội, mà còn biểu lộ hiệu quả của việc tha tội này: Người đã đưa các tội nhân được tha thứ về lại với cộng đoàn dân Thiên Chúa, cộng đoàn mà tội lỗi đã khiến họ phải xa lìa, hay thậm chí khiến họ bị loại trừ. Một dấu chỉ tỏ tường của việc này là, Chúa Giê-su đã đón nhận các tội nhân vào bàn tiệc của Người, hơn nữa, chính Người ngồi đồng bàn với họ, cử chỉ này, một cách hùng hồn, vừa diễn tả ơn tha thứ của Thiên Chúa37 và đồng thời, vừa nói lên sự trở về giữa lòng dân Thiên Chúa.38
1444. 981
Khi Chúa ban cho các Tông Đồ được tham dự vào quyền riêng của Người là quyền tha tội, Người cũng ban cho họ quyền giao hòa các tội nhân với Hội Thánh. Chiều kích giáo hội của nhiệm vụ này của các Tông Đồ được diễn tả cách đặc biệt trong những lời long trọng Đức Ki-tô nói với ông Phê-rô: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19). “Nhiệm vụ cầm buộc và tháo cởi, đã được ban cho thánh Phê-rô, cũng được ban cho tập thể các Tông Đồ, kết hợp với vị thủ lãnh của mình (x. Mt 18,18; 28,16-20).”39
1445. 553
Các thuật ngữ cầm buộc và tháo cởi có nghĩa là: ai bị anh em loại ra khỏi sự hiệp thông với anh em, thì người ấy cũng bị loại ra khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa; ai được anh em đón nhận lại vào sự hiệp thông với anh em, thì Thiên Chúa cũng đón nhận lại người ấy vào sự hiệp thông với Ngài. Việc giao hòa với Hội Thánh không thể tách biệt khỏi sự giao hòa với Thiên Chúa.
Bí tích của sự tha thứ (1446-1449)
1446. 979, 1856, 1990
Đức Ki-tô đã thiết lập bí tích Thống Hối này cho tất cả các chi thể của Hội Thánh Người, là những tội nhân, trước hết cho những kẻ, sau bí tích Rửa Tội, lại rơi vào tội trọng, và như thế, đánh mất ân sủng Phép Rửa và làm tổn thương cho sự hiệp thông của Hội Thánh. Bí tích Thống Hối cho những người này cơ hội mới để hối cải và tìm lại được ơn công chính hóa. Các Giáo phụ trình bày bí tích này như “cái phao (cứu độ) thứ hai sau khi đắm tàu, tức là sau khi đánh mất ân sủng.”40
1447. Qua các thế kỷ, hình thức cụ thể, qua đó Hội Thánh thực thi quyền tha tội đã lãnh nhận từ Chúa, đã có nhiều thay đổi. Trong các thế kỷ đầu, việc giao hòa cho các Ki-tô hữu nào đã phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng sau khi họ đã lãnh Phép Rửa (thí dụ thờ ngẫu tượng, giết người hay ngoại tình), được liên kết với một kỷ luật rất khắt khe; theo kỷ luật này, hối nhân phải làm việc đền tội công khai vì các tội lỗi của họ, thường kéo dài nhiều năm, trước khi họ được lãnh nhận ơn giao hòa. Thật ra cũng rất ít người bị liệt vào “hàng hối nhân” (chỉ liên quan tới một số tội nặng nề) và trong một số miền, hối nhân chỉ được nhận ơn giao hòa một lần trong đời. Vào thế kỷ thứ 7, các nhà truyền giáo người Ailen, dựa theo truyền thống các đan viện Đông phương, đã mang vào lục địa Châu Âu hình thức “thống hối riêng”, không đòi hỏi những việc thống hối công khai và kéo dài trước khi được giao hòa với Hội Thánh. Từ đó, bí tích được thực hiện cách kín đáo giữa hối nhân và tư tế. Cách thực hành mới này dự liệu người ta có thể được giao hòa nhiều lần và như vậy, mở đường cho việc năng lãnh nhận bí tích này. Cách thực hành này cũng cho phép gom vào trong cùng một cử hành bí tích, việc tha thứ các tội trọng và các tội nhẹ. Trong những nét chính, Hội Thánh vẫn còn thực hành hình thức thống hối này cho tới ngày nay.
1448. Mặc dầu có những thay đổi về kỷ luật và việc cử hành qua các thế kỷ, người ta nhận thấy bí tích này vẫn giữ nguyên một cấu trúc căn bản. Bí tích này gồm hai yếu tố cốt yếu như nhau: một đàng, là các hành động của con người hối cải dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần: thống hối, thú tội và đền tội; đàng khác, là hành động của Thiên Chúa qua sự can thiệp của Hội Thánh. Hội Thánh, qua Giám mục và các linh mục của ngài, nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, ban ơn tha tội và ấn định việc đền tội, Hội Thánh cũng cầu nguyện cho tội nhân và cùng làm việc thống hối với họ. Như vậy, tội nhân được chữa lành và được hiệp thông lại với Hội Thánh.
1449. 1481, 234
Công thức giải tội trong Giáo Hội La-tinh diễn tả những yếu tố cốt yếu của bí tích này: Chúa Cha hay thương xót là nguồn mạch của ơn tha thứ. Ngài thực hiện việc giao hòa với các tội nhân nhờ cuộc Vượt Qua của Con Ngài và nhờ hồng ân của Chúa Thánh Thần, qua lời cầu nguyện và thừa tác vụ của Hội Thánh:
“Thiên Chúa là Cha hay thương xót,
đã nhờ sự chết và sống lại của Con Chúa,
mà giao hòa thế gian với Chúa và ban Thánh Thần để tha tội;
xin Chúa dùng tác vụ của Hội Thánh,
mà ban cho anh (chị) ơn tha thứ và bình an.
Vậy, tôi tha tội cho anh (chị) nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.”41
VII. Các hành vi của hối nhân (1450-1460)
1450. “Việc thống hối đòi buộc tội nhân tự nguyện chịu đựng mọi sự; ăn năn tội trong trái tim, xưng tội ra ngoài miệng, khiêm tốn trong việc làm và đền tội một cách có hiệu quả.”42
Ăn năn tội (1451-1454)
1451. 431
Trong các hành vi của hối nhân, đầu tiên là ăn năn tội. Đó là “đau đớn trong lòng và chê ghét tội đã phạm, dốc lòng chừa từ nay không phạm tội nữa.”43
1452. 1822
Khi sự ăn năn tội xuất phát từ lòng yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì được gọi là ăn năn tội “cách trọn” (ăn năn do đức mến). Cách ăn năn tội này xóa bỏ các tội nhẹ; và cũng đem lại ơn tha thứ các tội trọng, nếu hối nhân quyết tâm đi xưng tội càng sớm càng tốt.44
1453. Ăn năn tội “cách chẳng trọn” (hoặc hối hận) cũng là một hồng ân của Thiên Chúa, một thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Nó phát sinh khi thấy sự xấu xa của tội lỗi hoặc vì sợ bị luận phạt đời đời và sợ các hình phạt khác mà kẻ tội lỗi phải chịu (ăn năn do sợ hãi). Sự khích động lương tâm như vậy có thể là khởi đầu của một tiến trình nội tâm, tiến trình này sẽ được hoàn tất dưới tác động của ân sủng nhờ ơn xá giải bí tích. Việc ăn năn tội cách chẳng trọn tự nó không đem lại ơn tha thứ các tội trọng, nhưng chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn tha tội trong bí tích Thống Hối.45
1454. Để lãnh nhận bí tích Giao Hòa, hối nhân cần chuẩn bị bằng việc xét mình dưới ánh sáng Lời Chúa. Những bản văn thích hợp nhất cho việc này được tìm thấy trong Mười Điều Răn và trong giáo huấn luân lý của các sách Tin Mừng và các Thư Tông Đồ: trong Bài giảng trên núi, trong những giáo huấn của các Tông Đồ.46
Xưng tội (1455-1458)
1455. 1424, 1734
Việc xưng tội (cáo mình), ngay trên bình diện thuần túy nhân loại, giải thoát chúng ta và làm cho chúng ta giao hòa với người khác cách dễ dàng hơn. Qua việc xưng tội, con người nhìn thẳng vào tội lỗi mình đã phạm, nhận lấy trách nhiệm về các tội đó, và từ đó một lần nữa mở lòng cho Thiên Chúa và cho sự hiệp thông với Hội Thánh để có thể có một tương lai mới.
1456. 1855, 1505
Việc xưng tội với một tư tế là phần cốt yếu của bí tích Thống Hối: “Khi xưng tội, các hối nhân phải kể tất cả các tội trọng mà họ ý thức được sau khi xét mình kỹ lưỡng, dù những tội trọng này rất thầm kín và chỉ phạm đến hai điều cuối của Thập Giới,47 vì những tội này làm tổn thương linh hồn cách trầm trọng hơn, và chúng còn nguy hiểm hơn những tội phạm cách tỏ tường”:48
“Mỗi khi các Ki-tô hữu cố gắng xưng thú tất cả các tội lỗi mà họ nhớ được, chắc chắn là họ đã trình bày tất cả cho lòng thương xót Chúa để được tha thứ. Còn những ai làm khác đi và cố tình giấu một số tội, thì họ đã chẳng trình bày điều gì cho lòng nhân hậu Chúa để được tha thứ qua vị tư tế. ‘Vì nếu bệnh nhân xấu hổ không cho thầy thuốc coi vết thương, thì thuốc không chữa được điều mà nó không biết’.”49
1457. 2042, 1385
Theo luật Hội Thánh, “mọi tín hữu, sau khi đến tuổi khôn, buộc phải xưng các tội trọng của mình một cách trung thực, một năm ít là một lần.”50 Ai ý thức mình đã phạm tội trọng, thì không được rước lễ, mặc dầu đã hết sức ăn năn, trước khi lãnh nhận ơn xá giải bí tích,51 trừ khi có lý do hệ trọng để rước lễ và không thể đến với một cha giải tội.52 Trẻ em phải lãnh nhận bí tích Thống Hối trước khi rước lễ lần đầu.53
1458. 1783, 2468
Việc xưng các lỗi phạm hằng ngày (các tội nhẹ), tuy không thật sự cần thiết, vẫn được Hội Thánh thiết tha khuyến khích.54 Quả thật, việc năng xưng các tội nhẹ giúp chúng ta rèn luyện lương tâm, để chiến đấu chống lại các khuynh hướng xấu, để cho Đức Ki-tô chữa lành chúng ta, và để chúng ta tiến tới trong đời sống theo Chúa Thánh Thần. Năng hưởng nhờ hồng ân của lòng thương xót của Chúa Cha qua bí tích này, chúng ta được thúc đẩy để trở nên hay thương xót như Ngài:55
“Ai thú nhận và xưng tội mình là đã cộng tác với Thiên Chúa. Thiên Chúa tố cáo các tội của bạn; nếu chính bạn cũng cáo tội mình, thì bạn được kết hợp với Thiên Chúa. Con người và tội nhân là như hai thực tại: khi nói về con người, thì đó là việc Thiên Chúa làm; khi nói về tội nhân, thì đó là chuyện chính con người làm. Bạn hãy phá đi điều bạn đã làm, để Thiên Chúa cứu độ điều Ngài đã làm… Khi bạn bắt đầu ghét điều bạn đã làm, lúc đó những việc tốt đẹp của bạn khởi sự, bởi vì bạn đã cáo mình về các việc xấu của bạn. Xưng thú các việc xấu là bắt đầu các việc tốt. Bạn đang thực hiện sự thật và bạn đang đến cùng Ánh sáng.”56
Việc đền tội (1459-1460)
1459. 2412, 2487, 1473
Có nhiều tội gây thiệt hại cho tha nhân. Phải làm hết sức có thể, để sửa sai lại (thí dụ, trả lại đồ vật đã lấy cắp, phục hồi danh dự cho người mình đã vu khống, bồi thường các thương tích). Riêng đức công bằng đã đòi hỏi điều đó. Nhưng hơn nữa, tội lỗi gây thương tổn và làm suy yếu chính tội nhân, và cả mối liên hệ giữa họ với Thiên Chúa và với tha nhân. Việc xá giải xóa bỏ tội lỗi, nhưng không mang lại phương dược cho mọi xáo trộn do tội lỗi gây nên.57 Được giải thoát khỏi tội lỗi, tội nhân còn phải hồi phục đầy đủ sức khoẻ thiêng liêng. Vì vậy, họ còn phải làm một việc gì đó để sửa lại tội lỗi của họ: phải “đền bù” cách thích hợp hoặc “đền tạ” về các tội lỗi của mình. Việc đền tội này cũng được gọi là “thống hối.”
1460. 2447, 618, 2011
Việc đền tội, mà vị giải tội ấn định, phải chú ý đến tình trạng riêng của hối nhân và mưu cầu điều thiện hảo thiêng liêng cho họ. Bao nhiêu có thể, việc đền tội phải tương xứng với sự trầm trọng và bản chất của các tội đã phạm. Có thể đền tội bằng cách cầu nguyện, dâng cúng, bằng những việc từ thiện, phục vụ tha nhân, bằng các việc hãm mình, hy sinh, và nhất là kiên trì đón nhận thánh giá chúng ta phải vác. Những việc đền tội như thế giúp chúng ta nên giống Đức Ki-tô, Đấng duy nhất, đã đền bù tội lỗi chúng ta58 một lần cho mãi mãi. Chúng sẽ làm cho chúng ta trở nên đồng thừa tự với Đức Ki-tô phục sinh, bởi vì “chúng ta cùng chịu đau khổ với Người” (Rm 8,17):59
“Chúng ta không thể làm việc đền tội để đền vì tội lỗi chúng ta, nếu không nhờ Chúa Giê-su Ki-tô: tự sức mình chúng ta không thể làm được gì, nhưng cùng với Người là ‘Đấng ban sức mạnh cho chúng ta, chúng ta làm được mọi việc’.60 Con người không có gì để tự phụ, nhưng tất cả vinh quang của chúng ta là ở nơi Đức Ki-tô,… trong Người, chúng ta đền tội, bằng cách ‘làm ra những hoa quả xứng đáng của lòng thống hối’,61 do Người, những hoa quả ấy có sức mạnh; bởi Người, chúng được dâng lên Chúa Cha; và nhờ Người, chúng được Chúa Cha chấp nhận.”62
VIII. Thừa tác viên của bí tích Thống Hối (1461-1467)
1461. 981
Bởi vì Đức Ki-tô đã trao cho các Tông Đồ của Người thừa tác vụ giao hòa,63 nên các Giám mục, những người kế nhiệm các ngài, và các linh mục, là những cộng sự viên của các Giám mục, tiếp tục thi hành thừa tác vụ này. Thật vậy, các Giám mục và các linh mục, nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, có quyền tha tất cả tội lỗi “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.”
1462. 886, 1567
Việc xá giải tội lỗi giao hòa chúng ta với Thiên Chúa và cũng giao hòa với Hội Thánh. Vì vậy, Giám mục, vị thủ lãnh hữu hình của Giáo Hội địa phương, từ rất xa xưa, vẫn được coi là người có quyền và có thừa tác vụ giao hòa một cách chính yếu: ngài là người điều phối kỷ luật thống hối.64 Các linh mục, là cộng sự viên của ngài, thi hành thừa tác vụ này trong phạm vi năng quyền mà họ lãnh nhận hoặc do Giám mục của mình (hay do bề trên dòng tu) hoặc do Đức Giáo Hoàng, theo luật Hội Thánh.65
1463. 982
Có một số tội nặng đặc biệt, ai phạm sẽ bị vạ tuyệt thông, là hình phạt nặng nhất theo giáo luật, cấm không cho nhận lãnh các bí tích và không được thi hành một số tác vụ trong Hội Thánh,66 và việc xá giải hình phạt này chỉ có thể được ban, theo giáo luật, do Đức Giáo Hoàng, do Giám mục giáo phận hay do các linh mục được các vị trên ủy quyền.67 Trong trường hợp nguy tử, bất cứ linh mục nào, dù không có năng quyền giải tội, vẫn có thể tha hết mọi tội và mọi vạ tuyệt thông.68
Bài này đã được xem 5724 lần!