GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

1532. Ân sủng đặc biệt của bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân có những hiệu quả như sau:

– giúp bệnh nhân được kết hợp với cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô, để mưu ích cho bản thân và cho toàn thể Hội Thánh;

– mang lại cho bệnh nhân sự an ủi, bình an và lòng can đảm, để chịu đựng theo tinh thần Ki-tô Giáo những đau khổ do bệnh tật hay tuổi già;

– ban ơn tha tội, nếu bệnh nhân không thể xưng tội được;

– đem lại sự hồi phục sức khoẻ, nếu điều đó hữu ích cho ơn cứu độ thiêng liêng;

– chuẩn bị để bước vào đời sống vĩnh cửu.


Chú thích

96 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965) 15.

97 X. Tv 38.

98 X. Tv 6,3; Is 38.

99 X. Tv 38,5; 39,9.12.

100 X. Tv 32,5; 107,20; Mc 2,5-12.

101 X. Is 53,11.

102 X. Is 33,24.

103 X. Mt 4,24.

104 X. Lc 7,16.

105 X. Mc 2,5-12.

106 X. Mc 2,17.

107 X. Mc 5,34.36; 9,23.

108 Mc 7,32-36; 8,22-25.

109 X. Ga 9,6-15.

110 X. Mc 3,10; 6,56.

111 X. Is 53,4.

112 X. Is 53,4-6.

113 X. Mt 10,38.

114 X. Cv 9,34; 14,3.

115 X. Mt 1,21; Cv 4,12.

116 X. 1 Cr 12,9.28.30.

117 X. Ga 6,54.58.

118 X. 1 Cr 11,30.

119 X. Thánh Innôcentiô I, Epistula Si instituta ecclesiastica: DS 216; CĐ Florentinô, Decretum pro Armenis: DS 1324-1325; CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento extremae Unctionis, c. 1-2: DS 1695-1696; Id., Sess. 14a, Canones de extrema Unctione, canones 1-2: DS 1716-1717.

120 X. Mc 6,13.

121 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento extremae Unctionis, c. 1: DS 1695; X. Gc 5,14-15.

122 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento extremae Unctionis, c. 2: DS 1696.

123 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 73: AAS 54 (1964) 118-119.

124 ĐGH Phao-lô VI, Tông hiến Sacram Unctionem infirmorum: AAS 65 (1973) 8; x. Bộ Giáo Luật, điều 847,1.

125 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 73: AAS 56 (1964) 118-119 ; x. Bộ Giáo Luật, các điều 1004,1. 1005. 1007; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 738.

126 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento extremae Unctionis, c. 3: DS 1697; Id., Sess. 14a, Canones de extrema Unctione, canon 4: DS 1719; Bộ Giáo Luật, điều 1003; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 739,1.

127 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 27: AAS 56 (1964) 107.

128 X. Gc 5,14.

129 X. Gc 5,15.

130 X. Dt 2,15.

131 X. CĐ Florentinô, Decretum pro Armenis: DS 1325.

132 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 14a, Canones de extrema Unctione, canon 2: DS 1717.

133 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 15.

134 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento extremae Unctionis, c. 3: DS 1698.

135 Ibid.

136 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento extremae Unctionis, Prooemium: DS 1694.

137 X. Ga 13,1.

CHƯƠNG III: CÁC BÍ TÍCH PHỤC VỤ SỰ HIỆP THÔNG (1533-1666)

1533. 1212

Các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể là những bí tích khai tâm Ki-tô Giáo. Ba bí tích này đặt nền tảng cho ơn gọi chung của tất cả các môn đệ Đức Ki-tô, ơn gọi đến sự thánh thiện và đến sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho trần gian. Ba bí tích này mang lại những ân sủng cần thiết cho đời sống theo Chúa Thánh Thần trong cuộc lữ hành đời này tiến về quê hương vĩnh cửu.

1534. Hai bí tích khác, Truyền Chức Thánh và Hôn Phối, hướng về ơn cứu độ của tha nhân. Chúng cũng mang lại ơn cứu độ cho bản thân, nhưng chúng thực hiện điều đó qua việc phục vụ tha nhân. Hai bí tích này trao ban một sứ vụ đặc biệt trong Hội Thánh, và phục vụ cho việc xây dựng dân Thiên Chúa.

1535. 784

Trong các bí tích này, những ai đã được thánh hiến bởi các bí tích Rửa Tội và Thêm Sức1 để lãnh nhận chức tư tế cộng đồng của tất cả các tín hữu, đều có thể lãnh nhận các việc thánh hiến đặc biệt. Những người lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh được thánh hiến để “dẫn dắt Hội Thánh bằng Lời và ân sủng của Thiên Chúa”2 nhân danh Đức Ki-tô. Về phần mình, “các đôi phối ngẫu Ki-tô hữu, thì được ban sức mạnh và như được thánh hiến bằng một bí tích đặc biệt để chu toàn các chức vụ và phẩm giá của bậc sống của mình.”3


Đề mục

Mục 6: Bí tích Truyền Chức Thánh (1536-1600)

Mục 7: Bí tích Hôn Phối (1601-1666)


Chú thích

1 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 10: AAS 57 (1965) 14.

2 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 15.

3 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 48: AAS 58 (1966) 1068.

Mục 6: Bí tích Truyền Chức Thánh (1536-1600)

1536. 860

Truyền Chức Thánh là bí tích qua đó, sứ vụ Đức Ki-tô đã ủy thác cho các Tông Đồ của Người được tiếp tục thực thi trong Hội Thánh cho đến tận thế: vì vậy, đây là bí tích của thừa tác vụ Tông Đồ. Bí tích này gồm ba cấp bậc: chức Giám mục, chức linh mục và chức phó tế.

(Về việc Đức Ki-tô thiết lập và trao ban thừa tác vụ Tông Đồ, xem các số 874-896. Ở đây, chỉ bàn về đời sống bí tích qua đó, thừa tác vụ này được lưu truyền).

I. Tại sao gọi là “Sacramentum ordinis” (Bí tích Truyền Chức Thánh)? (1537-1538)

1537. 922, 923, 1631

Vào thời cổ Rô-ma, người ta dùng từ Ordo để chỉ những tập thể dân sự, nhất là tập thể của những người lãnh đạo. Ordinatio chỉ việc đón nhận vào một tập thể (ordo) nào đó. Trong Hội Thánh có những tập thể như vậy mà truyền thống, dựa trên cơ sở Thánh Kinh,4 ngay từ xưa gọi là taxeis (tiếng Hy-lạp) hay ordines (tiếng La-tinh, nghĩa là hàng, bậc). Chẳng hạn, Phụng vụ nói đến hàng Giám mục (ordo episcoporum), hàng linh mục (ordo presbyterorum), hàng phó tế (ordo diaconorum). Nhiều nhóm khác cũng được gọi là ordo: các dự tòng, các trinh nữ, các đôi phối ngẫu, các bà góa…

1538. 875, 699

Việc đón nhận vào một trong những tập thể đó của Hội Thánh thường được diễn ra bằng một nghi thức, gọi là ordinatio, qua một hành vi tôn giáo và phụng vụ: đó có thể là một sự thánh hiến, một sự chúc lành hay một bí tích. Ngày nay, từ ordinatio (truyền chức) dành riêng cho việc cử hành bí tích để đón nhận một người vào hàng Giám mục, linh mục và phó tế; việc truyền chức này hơn hẳn việc đơn thuần bầu cử, chỉ định, ủy nhiệm hay thiết lập bởi cộng đoàn, bởi vì việc truyền chức ban hồng ân Chúa Thánh Thần, cho phép thực thi một quyền thánh chức,5 quyền này chỉ có thể xuất phát từ chính Đức Ki-tô, qua Hội Thánh của Người. Việc truyền chức (ordinatio) cũng được gọi là sự thánh hiến (consecratio), bởi vì đây là một sự tách riêng ra và giao nhiệm vụ bởi chính Đức Ki-tô để phục vụ Hội Thánh Người. Việc đặt tay của Giám mục cùng với lời nguyện thánh hiến, làm thành dấu chỉ hữu hình của sự thánh hiến này.

II. Bí tích Truyền Chức Thánh trong Nhiệm cục cứu độ (1539-1553)

Chức tư tế của Giao Ước Cũ (1539-1543)

1539. Dân Chúa chọn được Thiên Chúa thiết lập như một “vương quốc tư tế, một dân thánh” (Xh 19,6).6 Nhưng giữa dân Ít-ra-en, Thiên Chúa lại chọn một trong mười hai chi tộc, đó là chi tộc Lê-vi, được đặt riêng ra để lo công tác phụng vụ;7 chính Thiên Chúa là phần gia nghiệp của chi tộc này.8 Một nghi thức riêng biệt đã thánh hiến các tư tế đầu tiên của Giao Ước Cũ.9 Họ “được đặt lên vì loài người trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội.”10

1540. 2099

Chức tư tế này được thiết lập để rao giảng lời Thiên Chúa11 và tái lập sự hiệp thông với Thiên Chúa bằng các hy lễ và lời cầu nguyện, nhưng nó vẫn không có khả năng thực hiện ơn cứu độ, nên tuy lặp lại không ngừng việc dâng các hy lễ, nó vẫn không đạt được sự thánh hóa vĩnh viễn;12 điều mà chỉ có hy tế của Đức Ki-tô mới thực hiện được.

1541. Tuy nhiên, phụng vụ của Hội Thánh vẫn nhận ra trong chức tư tế của ông A-ha-ron và việc phục vụ của các thầy Lê-vi, cũng như việc thiết lập nhóm bảy mươi “Kỳ mục”,13 những hình ảnh báo trước cho thừa tác vụ có chức thánh của Giao Ước Mới. Trong nghi lễ La-tinh, Hội Thánh cầu xin trong lời nguyện thánh hiến để truyền chức Giám mục như sau:

“Lạy Cha là Thiên Chúa và là Cha Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con,… Cha đã dùng lời ân sủng mà ban bố các quy tắc trong Hội Thánh.

Từ nguyên thủy, Cha đã tiền định cho dòng dõi những người công chính phát xuất từ tổ phụ Áp-ra-ham. Cha đã thiết lập những vị thủ lãnh và tư tế, và không để thánh điện Cha thiếu người phục vụ…”14

1542. Khi truyền chức linh mục, Hội Thánh cầu nguyện:

“Lạy Chúa là Cha chí thánh,… ngay ở thời Cựu Ước xa xưa đã phát sinh những chức vụ được thiết lập qua các nhiệm tích: vì khi Cha đặt ông Mô-sê và ông A-ha-ron cai trị và thánh hóa dân chúng, Cha đã chọn những người có phẩm hàm và địa vị thấp hơn để giúp đỡ tập thể và công việc của các ông.

Vì vậy, trong hoang địa, Cha đã phân phát thần trí của ông Mô-sê cho bảy mươi người có trí thông minh… Cũng vậy, Cha đã thông ban sự sung mãn của ông A-ha-ron cho con cháu ông.”15

1543. Và trong lời nguyện thánh hiến để truyền chức Phó Tế, Hội Thánh tuyên xưng:

“Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng,… Cha ban cho Thân Thể ấy (là Hội Thánh của Cha) tăng trưởng và triển nở thành Đền Thờ mới mẻ rộng lớn. Bằng các nhiệm vụ thánh, Cha thiết lập ba cấp thừa tác viên phục vụ Danh Cha, như Cha đã chọn con cháu ông Lê-vi từ thuở đầu, để chu toàn thừa tác vụ nơi đền thánh cũ.”16

Chức tư tế duy nhất của Đức Ki-tô (1544-1545)

1544. 874

Tất cả hình ảnh của Giao Ước Cũ báo trước về chức tư tế đã được hoàn tất nơi Đức Ki-tô Giê-su, “Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người” (1 Tm 2,5). Ông Men-ki-xê-đê, “tư tế của Thiên Chúa tối cao” (St 14,18), được truyền thống Ki-tô Giáo xem như hình ảnh báo trước chức tư tế của Đức Ki-tô, Đấng duy nhất là “Thượng tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5,10; 6,20), “thánh thiện, vẹn toàn, vô tội” (Dt 7,26), “Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hóa được nên hoàn hảo” (Dt 10,14), nghĩa là Người chỉ dâng một hy lễ thập giá.

1545. 1367, 662

Hy lễ cứu chuộc của Đức Ki-tô là duy nhất, được thực hiện một lần cho mãi mãi. Tuy nhiên, hy lễ này hiện diện trong hy lễ Thánh Thể của Hội Thánh. Cũng có thể nói y như vậy về chức tư tế duy nhất của Đức Ki-tô: chức tư tế của Người hiện diện nhờ chức tư tế thừa tác mà tính duy nhất của chức tư tế của Đức Ki-tô không bị suy giảm: “Thật vậy, Đức Ki-tô là vị Tư tế đích thực duy nhất, còn những người khác chỉ là thừa tác viên của Người.”17

Hai cách tham dự vào chức tư tế duy nhất của Đức Ki-tô (1546-1547)

1546. 1268

Đức Ki-tô, là thượng tế và trung gian duy nhất, đã làm cho Hội Thánh thành vương quốc tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người.18 Như vậy, toàn thể cộng đoàn các tín hữu là tư tế. Các tín hữu thực thi chức tư tế do Phép Rửa qua việc họ tham dự, mỗi người theo ơn gọi riêng của mình, vào sứ vụ của Đức Ki-tô là Tư tế, Tiên tri và Vương đế. Nhờ các bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, các tín hữu “được thánh hiến để trở nên… một hàng tư tế thánh.”19

1547. 1142, 1120

Chức tư tế thừa tác hay phẩm trật của các Giám mục và linh mục và chức tư tế cộng đồng của tất cả các tín hữu, “mỗi chức theo cách của mình, tham dự vào chức tư tế duy nhất của Đức Ki-tô”;20 tuy khác nhau về bản chất, nhưng “cả hai tùy thuộc lẫn nhau.”21 Theo nghĩa nào? Chức tư tế cộng đồng của các tín hữu được thực hiện qua việc làm tăng trưởng ân sủng Phép Rửa, đời sống tin cậy mến, đời sống theo Chúa Thánh Thần; còn chức tư tế thừa tác là để phục vụ chức tư tế cộng đồng, giúp làm tăng trưởng ân sủng Phép Rửa của mọi Ki-tô hữu. Đó là một trong những phương tiện Đức Ki-tô không ngừng sử dụng để xây dựng và dẫn dắt Hội Thánh Người. Vì vậy mà chức tư tế thừa tác được trao ban qua một bí tích riêng, là bí tích Truyền Chức Thánh.

Trong cương vị Đức Ki-tô là Đầu… (1548-1551)

1548. 875, 792

Chính Đức Ki-tô hiện diện với Hội Thánh Người trong việc phục vụ của các thừa tác viên có chức thánh; Người hiện diện với tư cách là Đầu của thân thể Người, là Mục Tử của đoàn chiên của Người, là Thượng Tế của hy lễ cứu chuộc, là Thầy dạy chân lý. Đó là điều Hội Thánh muốn diễn tả khi xác quyết rằng vị tư tế, nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, hành động trong cương vị Đức Ki-tô là Đầu (in persona Christi Capitis):22

“Cùng một vị Tư Tế là chính Đức Ki-tô Giê-su, còn thừa tác viên của Người thật ra đảm nhận cương vị thánh thiêng của Người. Bởi vì vị này, nhờ sự thánh hiến linh mục mà ông đã lãnh nhận, ông được đồng hóa với Vị Thượng Tế, và ông được quyền hành động với quyền năng và cương vị của chính Đức Ki-tô (virtute ac persona ipsius Christi).”23

“Đức Ki-tô là nguồn mạch mọi chức tư tế: vì vị tư tế của luật cũ là hình bóng của Người; còn vị tư tế của luật mới hành động trong cương vị của Đức Ki-tô.”24

1549. 1142

Nhờ thừa tác vụ thánh chức, nhất là của các Giám mục và linh mục, sự hiện diện của Đức Ki-tô với tư cách là Đầu Hội Thánh, trở nên hữu hình giữa cộng đoàn tín hữu.25 Theo kiểu nói rất hay của thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-khi-a, Giám mục là typos tou Patros, như là hình ảnh sống động của Chúa Cha.26

1550. 896, 1128, 1584

Sự hiện diện như vậy của Đức Ki-tô trong thừa tác viên không được hiểu là vị này đã được gìn giữ khỏi mọi yếu đuối của con người, khỏi tinh thần thống trị, khỏi sai lầm và khỏi cả tội lỗi. Sức mạnh của Chúa Thánh Thần không bảo đảm cho tất cả các hành vi của thừa tác viên bằng cùng một cách thức. Khi thừa tác viên cử hành các bí tích, thì điều bảo đảm này được trao ban, nên thậm chí tội lỗi của thừa tác viên cũng không thể ngăn cản hiệu quả của ân sủng; còn trong nhiều hành vi khác, dấu ấn con người của thừa tác viên để lại những vết tích, không phải luôn luôn là dấu chỉ của sự trung thành với Tin Mừng và vì vậy, những hành vi đó có thể làm phương hại đến sự sinh hoa kết quả trong việc tông đồ của Hội Thánh.

1551. 876, 1538, 608

Chức tư tế này là chức tư tế thừa tác. “Nhiệm vụ đó, được Chúa trao phó cho các mục tử của dân Người, thật sự là một việc phục vụ.”27 Nó hoàn toàn hướng tới Đức Ki-tô và hướng tới con người. Chức tư tế thừa tác hoàn toàn lệ thuộc vào Đức Ki-tô và vào chức tư tế duy nhất của Người, và được thiết lập vì con người và cộng đoàn Hội Thánh. Bí tích Truyền Chức Thánh thông ban “quyền thánh chức”, không là gì khác hơn là quyền năng thánh thiêng của Đức Ki-tô. Vì vậy, việc thực thi quyền này phải rập theo mẫu gương của Đức Ki-tô, Đấng vì yêu thương đã trở nên người rốt hết và là tôi tớ của mọi người.28 “Chúa đã tuyên bố rõ ràng rằng việc chăm sóc đoàn chiên là bằng chứng tình yêu đối với Người.”29

… “nhân danh toàn thể Hội Thánh” (1552-1553)

1552. Chức tư tế thừa tác không những có nhiệm vụ đại diện cho Đức Ki-tô, Đấng là Đầu Hội Thánh, trước cộng đoàn tín hữu, mà còn hành động nhân danh toàn thể Hội Thánh, khi dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện của Hội Thánh,30 và nhất là khi dâng Hy lễ Thánh Thể.31

1553. 795

“Nhân danh toàn thể Hội Thánh” không có nghĩa là các tư tế là những đại biểu của cộng đoàn. Lời cầu nguyện và lễ vật của Hội Thánh không thể tách rời khỏi lời cầu nguyện và lễ vật của Đức Ki-tô, Đấng là Đầu Hội Thánh. Đây luôn luôn là việc phụng tự của Đức Ki-tô trong và nhờ Hội Thánh Người. Toàn thể Hội Thánh, là Thân Thể Đức Ki-tô, cầu nguyện và dâng mình cho Chúa Cha, “chính nhờ Người, với Người và trong Người”, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần. Toàn thân thể, gồm Đầu và các chi thể, cầu nguyện và dâng mình; vì vậy, những ai ở trong thân thể đó, đặc biệt là các thừa tác viên của thân thể đó, được gọi là thừa tác viên không những của Đức Ki-tô mà còn của Hội Thánh nữa. Bởi vì chức tư tế thừa tác đại diện cho Đức Ki-tô, nên nó có thể đại diện cho Hội Thánh.

III. Ba bậc của bí tích Truyền Chức Thánh (1554-1571)

1554. 1536, 1538

“Thừa tác vụ trong Hội Thánh, do Chúa thiết lập, được thực thi trong những cấp bậc khác nhau do những người, mà từ thời xa xưa, đã được gọi là Giám mục, linh mục và phó tế.”32 Giáo lý Công giáo, được diễn tả trong phụng vụ, trong Huấn Quyền và trong cách thực hành không thay đổi của Hội Thánh, thừa nhận có hai cấp bậc tham dự theo thừa tác vụ vào chức tư tế của Đức Ki-tô: đó là hàng Giám mục và hàng linh mục. Hàng phó tế có nhiệm vụ giúp đỡ và phục vụ các vị trên. Vì thế, từ tư tế (sacerdos), theo cách sử dụng hiện nay, dùng để chỉ các Giám mục và các linh mục, nhưng không chỉ các phó tế. Tuy nhiên, giáo lý Công giáo dạy rằng những cấp bậc tham dự vào chức tư tế (Giám mục và linh mục) và cấp bậc phục vụ (phó tế), cả ba đều được trao ban qua một hành vi bí tích được gọi là “ordinatio”, nghĩa là qua bí tích Truyền Chức Thánh: “Chớ gì mọi người tôn trọng các phó tế như Chúa Giê-su Ki-tô, tôn trọng Giám mục như hình ảnh của Chúa Cha và tôn trọng các linh mục như nghị viên của Thiên Chúa và như công hội các Tông Đồ: không có những vị này, không thể nói về Hội Thánh.”33

Truyền chức Giám mục – Sự viên mãn của bí tích Truyền Chức Thánh (1555-1561)

1555. 861

“Trong số các thừa tác vụ khác nhau được thực thi trong Hội Thánh từ buổi sơ khai, thì theo chứng từ của Truyền Thống, vị trí chủ yếu thuộc về phận vụ của những người, được thiết đặt trong hàng Giám mục, qua sự kế nhiệm liên tục từ ban đầu, là những người có những mầm mống hạt giống Tông Đồ.”34

1556. 862

Để hoàn thành sứ vụ cao cả của mình, “các Tông Đồ được Đức Ki-tô đổ tràn đầy Chúa Thánh Thần cách đặc biệt, và chính các Tông Đồ trao ban hồng ân thiêng liêng cho các cộng sự viên của mình qua việc đặt tay, điều đó được lưu truyền cho đến chúng ta trong việc thánh hiến Giám mục.”35

1557. Công đồng Va-ti-ca-nô II dạy: “Việc thánh hiến Giám mục mang lại sự viên mãn của bí tích Truyền Chức Thánh, mà tập tục phụng vụ của Hội Thánh và các Thánh Giáo phụ gọi là chức tư tế tối cao, là tột đỉnh của thừa tác vụ thánh.”36

1558. 895, 1121

“Việc thánh hiến Giám mục, cùng với nhiệm vụ thánh hóa, cũng trao ban nhiệm vụ giảng dạy và cai quản… Rõ ràng là nhờ việc đặt tay và nhờ các lời thánh hiến, ân sủng của Chúa Thánh Thần được truyền thông và ấn tín thánh thiêng được in ấn, đến độ các Giám mục, một cách trổi vượt và có thể thấy được, đảm nhận các vai trò của chính Đức Ki-tô là Thầy, Mục tử và Thượng tế, và hành động trong cương vị của Người (in Eius persona agant).”37 “Nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng được ban cho các Giám mục, các ngài trở thành những Thầy dạy đức tin, Thượng tế, và Mục tử thật sự và đích thực.”38

1559. 877, 882

“Một vị nào đó được thiết đặt làm thành viên của Giám mục đoàn, nhờ việc thánh hiến của bí tích và nhờ sự hiệp thông phẩm trật với vị thủ lãnh và các thành viên của Giám mục đoàn.”39 Đặc tính và bản chất cộng đoàn của hàng Giám mục được biểu lộ bằng nhiều cách, trong đó có một thực hành từ xa xưa của Hội Thánh, là muốn có nhiều Giám mục tham dự việc thánh hiến một tân Giám mục.40 Để truyền chức hợp pháp một Giám mục, ngày nay phải có sự can thiệp đặc biệt của Giám mục Rô-ma, vì ngài là dây liên kết hữu hình tối cao của sự hiệp thông các Giáo Hội địa phương trong một Hội Thánh duy nhất, và là người bảo đảm cho sự tự do của các Giáo Hội đó.

Bài này đã được xem 5639 lần!

Pages ( 55 of 96 ): <1 ... 5354 55 5657 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]