GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

1560. 833, 886

Mỗi Giám mục, với tư cách là vị đại diện của Đức Ki-tô, có trách nhiệm mục vụ trong Giáo Hội địa phương đã được trao phó cho ngài, nhưng đồng thời, một cách tập đoàn với mọi anh em của ngài trong hàng Giám mục, ngài quan tâm đến tất cả các Giáo Hội: “Dù mỗi Giám mục là mục tử thánh thiêng của phần đoàn chiên được trao phó cho ngài, nhưng vì là người kế nhiệm hợp pháp của các Tông Đồ do Chúa thiết lập và truyền lệnh, nên ngài phải là người bảo đảm cho nhiệm vụ tông đồ của Hội Thánh cùng với các Giám mục khác.”41

1561. 1369

Những điều trên đây giải thích tại sao bí tích Thánh Thể do một Giám mục cử hành lại có một ý nghĩa hết sức đặc biệt, xét như sự diễn tả một Hội Thánh quy tụ quanh bàn thờ, dưới sự chủ tọa của vị đại diện hữu hình của Đức Ki-tô, là Mục tử nhân lành và là Đầu của Hội Thánh Người.42

Truyền chức linh mục – cộng sự viên của Giám mục (1562-1568)

1562. “Đức Ki-tô, Đấng Chúa Cha đã thánh hóa và sai vào trần gian, qua các Tông Đồ của Người, đã làm cho các vị kế nhiệm các ngài, nghĩa là các Giám mục, được tham dự vào việc thánh hiến và vào sứ vụ của Người. Các Giám mục lại giao trách nhiệm thừa tác vụ của mình một cách hợp pháp cho nhiều người dưới quyền trong Hội Thánh, theo cấp bậc khác nhau.”43 “Trách nhiệm thừa tác vụ của các Giám mục được trao cho các linh mục, ở cấp bậc phụ thuộc, để một khi đã được thiết đặt vào hàng linh mục, các vị này là những cộng tác viên của hàng Giám mục hầu chu toàn cách thích đáng sứ vụ tông đồ đã được Đức Ki-tô trao phó.”44

1563. 1121

“Chức vụ của các linh mục, vì được liên kết với hàng Giám mục, nên được tham dự vào quyền bính mà chính Đức Ki-tô đã dùng để xây dựng, thánh hóa và cai quản Thân Thể Người. Vì vậy, chức tư tế của các linh mục, tuy đòi phải có các bí tích khai tâm Ki-tô Giáo, nhưng còn được trao ban bằng một bí tích riêng, nhờ đó các linh mục được ghi dấu bằng một ấn tín đặc biệt, qua việc xức dầu bằng Chúa Thánh Thần, và như vậy, các vị này nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô Tư Tế, đến nỗi có thể hành động trong cương vị của Đức Ki-tô là Đầu.”45

1564. 611

“Tuy không có quyền cao nhất của chức thượng tế và tùy thuộc các Giám mục trong khi thực thi năng quyền của mình, các linh mục vẫn được liên kết với các Giám mục trong danh dự tư tế, và nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, các linh mục được thánh hiến theo hình ảnh Đức Ki-tô, vị Thượng Tế vĩnh cửu,46 để rao giảng Tin Mừng, hướng dẫn các tín hữu, và cử hành việc phụng tự thần linh với tư cách là những tư tế đích thực của Giao Ước Mới.”47

1565. 849

Nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, các tư tế tham dự vào tính phổ quát của sứ vụ được Đức Ki-tô trao phó cho các Tông Đồ. Hồng ân thiêng liêng các ngài nhận lãnh trong việc truyền chức, chuẩn bị các ngài, không phải cho một sứ vụ giới hạn và thu hẹp, nhưng cho sứ vụ cứu độ rất rộng lớn có tính phổ quát, “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8),48 đến độ các ngài “sẵn sàng đi rao giảng Tin Mừng ở bất cứ nơi nào.”49

1566. 1369, 611

“Các ngài thực thi nhiệm vụ thánh thiêng của mình cách tuyệt hảo nhất trong phụng tự Thánh Thể, qua đó, khi hành động trong cương vị Đức Ki-tô và công bố mầu nhiệm của Người, các ngài kết hợp lễ dâng của các tín hữu với hy lễ của Đấng là Đầu của họ, và trong Hy tế Thánh lễ, cho tới khi Chúa đến, các ngài hiện tại hóa và áp dụng hy lễ duy nhất của Giao Ước Mới, là hy lễ của Đức Ki-tô, Đấng đã tự hiến làm lễ vật tinh tuyền dâng lên Chúa Cha một lần cho mãi mãi.”50 Toàn bộ thừa tác vụ tư tế của các ngài múc được sức mạnh từ hy lễ duy nhất này.51

1567. 1462, 2179

“Là cộng sự viên biết lo xa, là phụ tá và là dụng cụ của hàng Giám mục, được kêu gọi để phục vụ dân Thiên Chúa, các linh mục cùng với Giám mục của mình tạo thành linh mục đoàn (presbyterium) duy nhất, tuy đảm nhận những chức vụ khác nhau. Trong mỗi cộng đoàn tín hữu địa phương, một cách nào đó các linh mục là hiện thân của Giám mục, mà các ngài hằng liên kết với lòng tin tưởng và quảng đại, các ngài lãnh nhận một phần các nhiệm vụ và sự quan tâm của Giám mục, và thực thi phần việc ấy bằng sự chăm sóc hằng ngày.”52 Các linh mục không thể thực thi nhiệm vụ của mình nếu không tùy thuộc vào Giám mục và hiệp thông với ngài. Lời hứa vâng phục Giám mục khi chịu chức và cái hôn bình an của Giám mục vào cuối phụng vụ truyền chức, cho thấy Giám mục nhận các linh mục như cộng sự viên, như con cái, như anh em, như bạn hữu của mình, và phần các linh mục, phải yêu mến và vâng phục Giám mục.

1568. 1537

“Tất cả các linh mục, được thiết đặt vào hàng linh mục nhờ việc truyền chức, liên kết mật thiết với nhau bằng tình huynh đệ do bí tích; nhưng cách đặc biệt trong một giáo phận, nơi các ngài được chỉ định phục vụ dưới quyền một Giám mục riêng, các ngài hợp thành một linh mục đoàn duy nhất.”53 Tính duy nhất của linh mục đoàn được biểu lộ qua một tập tục phụng vụ, đó là trong nghi thức truyền chức linh mục, sau Giám mục, chính các linh mục cũng đặt tay [lên đầu vị tiến chức].

Truyền chức Phó tế – “để phục vụ” (1569-1571)

1569. “Ở bậc thấp hơn của phẩm trật, có các phó tế, những người được đặt tay, không phải để lãnh nhận chức tư tế, nhưng là để phục vụ.”54 Khi truyền chức phó tế, chỉ một mình Giám mục đặt tay; điều này cho thấy phó tế được liên kết đặc biệt với Giám mục trong các trách nhiệm “phục vụ”55 của ngài.

1570. 1121

Các phó tế tham dự vào sứ vụ và ân sủng của Đức Ki-tô56 một cách đặc biệt. Bí tích Truyền Chức Thánh ghi cho họ một ấn tín không thể tẩy xóa, và làm cho họ nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, Đấng trở thành “người phục vụ”, nghĩa là tôi tớ của mọi người.57 Ngoài các nhiệm vụ khác, phần việc của các phó tế là phụ giúp Giám mục và các linh mục trong việc cử hành các mầu nhiệm thần linh, nhất là mầu nhiệm Thánh Thể, trao Mình Thánh Chúa, chứng kiến và chúc lành cho bí tích Hôn Phối, công bố và giảng Tin Mừng, chủ sự lễ nghi an táng và dấn thân vào các việc phục vụ bác ái.58

1571. 1579

Sau Công đồng Va-ti-ca-nô II, Giáo Hội La-tinh tái lập chức phó tế “xét như một bậc riêng và vĩnh viễn của phẩm trật”,59 trong khi các Giáo Hội Đông phương vẫn duy trì chức vụ này từ xưa. Chức phó tế vĩnh viễn này, có thể được ban cho những người nam đã lập gia đình, làm phong phú cho Hội Thánh trong vấn đề sứ vụ. Quả vậy, thật là thích hợp và hữu ích, khi có những người chu toàn thừa tác vụ phó tế trong Hội Thánh cả trong đời sống phụng vụ và mục vụ cả trong các công tác xã hội và bác ái, “nhờ việc đặt tay đã được các Tông Đồ truyền lại, họ được nên vững mạnh và được kết hợp mật thiết hơn với bàn thánh, để chu toàn thừa tác vụ của mình một cách hữu hiệu hơn nhờ ân sủng bí tích của chức phó tế.60

IV. Việc cử hành bí tích Truyền Chức Thánh (1572-1574)

1572. Việc cử hành truyền chức cho Giám mục, linh mục hay phó tế, vì tầm quan trọng của việc đó đối với đời sống Giáo Hội địa phương, nên có các tín hữu tham dự đông đảo bao nhiêu có thể. Tốt nhất là cử hành vào ngày Chúa Nhật và tại nhà thờ Chánh Tòa với sự long trọng tùy theo hoàn cảnh. Cả ba lễ truyền chức, Giám mục, linh mục và phó tế, đều theo cùng một diễn tiến. Việc truyền chức được cử hành trong Thánh lễ.

1573. 699, 1585

Nghi thức chính yếu của bí tích Truyền Chức Thánh, cho cả ba bậc, gồm việc Giám mục đặt tay trên đầu vị thụ phong, cùng với lời nguyện thánh hiến, khẩn cầu Thiên Chúa tuôn đổ Chúa Thánh Thần và những hồng ân của Ngài, phù hợp với thừa tác vụ mà ứng viên được truyền chức.61

1574. 1294, 796

Cũng như trong các bí tích khác, nghi thức truyền chức có kèm theo một số nghi thức phụ. Tuy rất khác biệt trong những truyền thống phụng vụ khác nhau, nhưng cách chung, các nghi thức phụ này đều diễn tả nhiều khía cạnh của ân sủng bí tích. Trong nghi lễ La-tinh, có những nghi thức khởi đầu gồm: việc giới thiệu và tuyển chọn tiến chức, huấn dụ của Giám mục, khảo hạch tiến chức, kinh cầu các Thánh; những nghi thức này xác nhận ứng viên được tuyển chọn đúng theo cách làm của Hội Thánh, và chuẩn bị cho hành vi long trọng là việc thánh hiến. Sau nghi thức truyền chức, còn có những nghi thức kèm theo để diễn tả và thực hiện cách biểu tượng mầu nhiệm vừa cử hành: đối với tân Giám mục và tân linh mục có việc xức dầu thánh, là dấu chỉ của việc xức dầu bằng Chúa Thánh Thần cách đặc biệt làm cho thừa tác vụ của các ngài được sinh hoa kết quả; việc trao cho tân Giám mục sách Tin Mừng, nhẫn, mũ và gậy như dấu chỉ cho sứ vụ tông đồ của ngài là rao giảng Lời Chúa, sự trung thành của ngài đối với Hội Thánh là Hiền Thê của Đức Ki-tô, và nhiệm vụ của ngài là mục tử của đoàn chiên của Chúa; việc trao cho tân linh mục dĩa và chén thánh, là dấu chỉ của lễ vật của dân thánh62 mà tân linh mục được kêu gọi để dâng lên Thiên Chúa; việc trao sách Tin Mừng cho tân phó tế là người đã lãnh nhận sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Đức Ki-tô.

V. Ai có thể ban bí tích này? (1575-1576)

1575. 857

Đức Ki-tô đã tuyển chọn các Tông Đồ và cho họ tham dự vào sứ vụ và quyền bính của Người. Khi lên ngự bên hữu Chúa Cha, Người không bỏ rơi đoàn chiên của Người, nhưng nhờ các Tông Đồ, Người gìn giữ đoàn chiên dưới sự bảo vệ không ngừng của Người, và vẫn đang hướng dẫn đoàn chiên đó nhờ các mục tử, những người ngày nay đang tiếp nối công trình của Người.63 Vì vậy, Đức Ki-tô “ban cho” người này làm Tông Đồ, người khác làm mục tử.64 Chính Người tiếp tục hành động qua các Giám mục.65

1576. 1536

Bởi vì bí tích Truyền Chức Thánh là bí tích của thừa tác vụ Tông Đồ, nên việc truyền thông “hồng ân thiêng liêng”66 và “hạt giống Tông Đồ”67 thuộc về các Giám mục, với tư cách là những vị kế nhiệm các Tông Đồ. Các Giám mục đã được truyền chức cách thành sự, nghĩa là những vị ở trong chuỗi kế nhiệm Tông Đồ, trao ban cách thành sự cả ba cấp bậc của bí tích Truyền Chức Thánh.68

VI. Ai có thể lãnh nhận bí tích này? (1577-1580)

1577. 551, 861, 862

“Chỉ người nam (vir) đã được Rửa Tội mới lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh cách thành sự.”69 Chúa Giê-su đã tuyển chọn những người nam (viri) để thành lập nhóm Mười Hai Tông Đồ,70 và các Tông Đồ cũng làm như vậy khi tuyển chọn các cộng sự viên,71 những người kế nhiệm các ngài trong nhiệm vụ của các ngài.72 Giám mục đoàn, cùng với các linh mục được liên kết với các ngài trong chức tư tế, làm cho Nhóm Mười Hai hiện diện và tác động trong hiện tại, cho tới khi Chúa lại đến. Hội Thánh biết mình bị ràng buộc với sự chọn lựa này của Chúa. Do đó, không thể có việc truyền chức cho các người nữ.73

1578. 2121

Không ai có quyền đòi hỏi để lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh. Thật vậy, không ai được tự nhận lấy cho mình nhiệm vụ này. Phải được Thiên Chúa kêu gọi lãnh nhiệm vụ đó.74 Ai nghĩ mình nhận ra những dấu chỉ ơn gọi của Thiên Chúa để lãnh nhận thừa tác vụ thánh, phải khiêm tốn trình bày nguyện vọng của mình lên thẩm quyền của Hội Thánh. Hội Thánh có trách nhiệm và có quyền gọi một người nào đó lãnh nhận các chức thánh. Cũng như mọi ân sủng, bí tích này chỉ được lãnh nhận với tính cách là một hồng ân nhưng không.

1579. 1618, 2233

Tất cả các thừa tác viên được truyền chức của Giáo hội La-tinh, trừ các phó tế vĩnh viễn, thường được tuyển chọn từ những nam tín hữu, những người đang sống độc thân và muốn giữ mình độc thân “vì Nước Trời” (Mt 19,12). Được kêu gọi tận hiến cho Chúa một cách không chia sẻ, để lo các việc của Ngài,75 họ dấn thân trọn vẹn cho Thiên Chúa và cho con người. Sự độc thân là dấu chỉ của đời sống mới mà thừa tác viên của Hội Thánh được thánh hiến để phục vụ. Được chấp nhận với tâm hồn vui tươi, sự độc thân loan báo Nước Thiên Chúa một cách rạng rỡ.76

1580. Trong các Giáo Hội Đông phương, đã từ nhiều thế kỷ, có một tập tục khác: các Giám mục chỉ được tuyển chọn trong số những người độc thân, còn những người đã lập gia đình có thể được truyền chức linh mục và phó tế. Thực hành này, đã từ lâu, vẫn được coi là hợp pháp; các linh mục này thực thi thừa tác vụ hữu hiệu trong các cộng đoàn của họ.77 Tuy nhiên, sự độc thân của các linh mục rất được trân trọng trong các Giáo Hội Đông phương và nhiều linh mục đã tự nguyện sống độc thân vì Nước Thiên Chúa. Ở Đông phương cũng như Tây phương, ai đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh, không còn được phép kết hôn.

VII. Những hiệu quả của bí tích Truyền Chức Thánh (1581-1589)

Ấn tín không thể tẩy xóa (1581-1584)

1581. 1548

Bí tích này làm cho người thụ phong nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô nhờ ân sủng đặc biệt của Chúa Thánh Thần, để họ trở thành dụng cụ của Đức Ki-tô hầu phục vụ Hội Thánh Người. Nhờ việc truyền chức, họ nhận được khả năng hành động với tư cách là người đại diện của Đức Ki-tô, Đấng là Đầu Hội Thánh, trong ba nhiệm vụ của Người là Tư tế, Tiên tri và Vương đế.

1582. 1121

Cũng như trường hợp bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, việc tham dự này vào nhiệm vụ của Đức Ki-tô được trao ban chỉ một lần cho mãi mãi. Chính bí tích Truyền Chức Thánh cũng in một ấn tín thiêng liêng không thể tẩy xóa nên không thể ban bí tích lại, cũng như không thể ban để thi hành trong một khoảng thời gian giới hạn.78

1583. Người đã lãnh nhận chức thánh cách thành sự, vì những lý do nghiêm trọng, có thể được bãi miễn khỏi những bổn phận và nhiệm vụ gắn liền với việc truyền chức, hay có thể bị cấm thi hành các điều đó,79 nhưng không thể trở về bậc giáo dân theo nghĩa hẹp, bởi vì ấn tín được ghi do việc truyền chức vẫn còn mãi.80 Ơn gọi và sứ vụ đã lãnh nhận trong ngày người đó chịu chức thánh ghi dấu trên người đó một cách trường tồn.

1584. 1128, 1550

Bởi vì xét cho cùng, chính Đức Ki-tô là Đấng hành động và thực hiện ơn cứu độ qua thừa tác viên có chức thánh, nên sự bất xứng của vị này không ngăn cản được Đức Ki-tô hành động.81 Thánh Augustinô đã nói cách mạnh mẽ:

“Quả thật, thừa tác viên nào kiêu căng, thì bị liệt vào hàng ma quỷ; nhưng họ không làm ô nhiễm được hồng ân của Đức Ki-tô, hồng ân đó chảy qua họ vẫn tinh tuyền, hồng ân đó đi qua họ vẫn trong suốt và đi tới đất đai phì nhiêu… Sức mạnh thiêng liêng của bí tích giống như ánh sáng: những ai cần được soi sáng sẽ nhận được ánh sáng tinh tuyền, và nếu ánh sáng có đi ngang qua những gì dơ bẩn, thì ánh sáng cũng không bị dơ bẩn.”82

Ân sủng của Chúa Thánh Thần (1585-1589)

1585. Ân sủng của Chúa Thánh Thần do bí tích này trao ban là ơn được đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô là Tư Tế, là Thầy và là Mục Tử, mà người thụ phong được thiết đặt làm thừa tác viên của Người.

1586. 2448, 1558

Giám mục lãnh nhận trước tiên là ơn can đảm (“Thánh Thần Thủ Lãnh” hoặc Thánh Thần, Đấng thiết đặt các thủ lãnh: lời nguyện tấn phong Giám mục trong nghi lễ La-tinh83): ơn này giúp ngài hướng dẫn và bảo vệ Hội Thánh của ngài một cách can đảm hơn và khôn ngoan hơn, như một người cha và một mục tử, với một tình yêu vô vị lợi đối với tất cả mọi người và một tình yêu ưu tiên đối với những người nghèo khổ, bệnh tật, và thiếu thốn.84 Ơn này thúc đẩy ngài loan báo Tin Mừng cho mọi người, trở nên mẫu mực cho đoàn chiên của mình, đi tiên phong trên đường thánh thiện khi kết hợp nên một với Đức Ki-tô, là Tư Tế và là Lễ Vật, trong bí tích Thánh Thể, và không sợ hiến mạng sống vì đoàn chiên của mình:

“Lạy Cha, Đấng hằng thấu suốt các tâm hồn, xin ban ơn cho tôi tớ Cha đây, mà Cha đã chọn vào hàng Giám mục, để ngài hướng dẫn đoàn chiên thánh của Cha, và trình lên Cha chức tư tế cao cả một cách không có gì đáng trách, ngày đêm phục vụ Cha, không ngừng làm nguôi lòng Cha, và hiến dâng những lễ vật của Hội Thánh Cha; nhờ chức tư tế cao cả, xin cho ngài có quyền tha thứ tội lỗi theo lệnh truyền của Cha, phân phối các chức vụ theo mệnh lệnh Cha và tháo cởi mọi ràng buộc theo quyền Cha ban cho các Tông Đồ; xin ban cho ngài làm thỏa lòng Cha bằng sự dịu dàng và tấm lòng trong sạch, dâng lên Cha hương thơm dịu ngọt, nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, Con Cha…”85

1587. 1564

Bài này đã được xem 5626 lần!

Pages ( 56 of 96 ): <1 ... 5455 56 5758 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]