GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

Hồng ân thiêng liêng, được trao ban qua việc truyền chức linh mục, được diễn tả bằng kinh nguyện sau đây của nghi lễ Byzantin. Khi đặt tay, vị Giám mục cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban tràn đầy hồng ân của Thánh Thần Chúa cho người được Chúa thương nâng lên hàng linh mục, để họ xứng đáng đứng trước bàn thờ Chúa một cách không có gì đáng trách, để họ loan báo Tin Mừng của Nước Chúa, công bố Lời chân lý của Chúa, dâng lên Chúa lễ vật và tế phẩm thiêng liêng, và canh tân dân Chúa nhờ sự tẩy rửa tái sinh; để khi gặp Chúa Giê-su Ki-tô Con Một Chúa, là Thiên Chúa cao cả và là Đấng cứu độ chúng con khi Người ngự đến lần thứ hai, họ được lãnh nhận phần thưởng vì đã chu toàn các công việc do thánh chức của mình, nhờ lòng nhân hậu vô cùng của Chúa.”86

1588. 1569

Các phó tế “được mạnh sức bởi ân sủng bí tích, phục vụ dân Thiên Chúa trong các việc phục vụ phụng vụ, lời Chúa và bác ái, trong sự hiệp thông với Giám mục và hàng linh mục của ngài.”87

1589. 460, 1551

Trước sự cao cả của ân sủng và của nhiệm vụ tư tế, các Thánh Tiến sĩ đã cảm nghiệm tiếng gọi khẩn thiết phải hối cải để, trọn cả đời mình, đáp trả lại Đấng dùng bí tích thiết đặt các ngài làm thừa tác viên. Thánh Grêgôriô thành Nazien, khi còn là một linh mục trẻ, đã phát biểu như sau:

“Trước tiên phải thanh luyện mình rồi mới thanh luyện kẻ khác; phải học sự khôn ngoan, rồi mới dạy dỗ sự khôn ngoan cho người khác; phải trở nên ánh sáng, rồi mới chiếu soi người khác; phải đến gần Chúa rồi mới dẫn người khác đến gần Ngài; phải được thánh hóa, rồi mới thánh hóa (người khác); cầm tay dẫn dắt và khuyên bảo cách khôn ngoan.88 Tôi biết, chúng ta là thừa tác viên của Đấng nào, chúng ta ở đâu, và chúng ta hướng về đâu. Tôi biết, Thiên Chúa cao cả như thế nào, sự yếu đuối của con người như thế nào và nó lại được ban quyền năng ra sao.89 [Vậy linh mục là ai? Là] người bảo vệ chân lý, người sẽ đứng với các Thiên thần, sẽ tôn vinh với các Tổng lãnh Thiên thần, sẽ mang hy lễ lên bàn thờ thiên quốc, sẽ chia sẻ chức tư tế với Đức Ki-tô, sẽ tái tạo vạn vật, sẽ phục hồi hình ảnh Thiên Chúa nơi thụ tạo, sẽ là công nhân cho thế giới thiên quốc; và, cho tôi nói điều cao cả hơn nữa, linh mục sẽ là một vị thần và làm cho những người khác nên những vị thần”90. Cha sở thánh xứ Ars nói: “Linh mục tiếp nối công trình cứu chuộc ở trần gian này.”.. “Nếu ai hiểu rõ linh mục trên trần gian này, người ấy sẽ chết không phải vì sợ hãi, mà vì yêu mến.”.. “Chức linh mục là tình yêu của trái tim Chúa Giê-su.”91

Tóm lược (1590-1600)

1590. Thánh Phao-lô nói với môn đệ Timôthêô của mình: “Tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh” (2 Tm 1,6) và “Ai mong được làm giám quản, người ấy ước muốn một nhiệm vụ cao đẹp” (1 Tm 3,1). Ngài nói với ông Titô: “Tôi đã để anh ở lại đảo Kêta, chính là để anh hoàn thành công việc tổ chức, và đặt những kỳ mục trong mỗi thành như tôi đã truyền cho anh” (Tt 1,5).

1591. Toàn thể Hội Thánh là một dân tư tế. Nhờ bí tích Rửa Tội, mọi tín hữu tham dự vào chức tư tế của Đức Ki-tô. Sự tham dự này được gọi là “chức tư tế cộng đồng của các tín hữu.” Trên nền tảng của chức tư tế này và để phục vụ cho chức tư tế này, còn có sự tham dự khác vào sứ vụ của Đức Ki-tô, đó là chức tư tế thừa tác được trao ban qua bí tích Truyền Chức Thánh; nhiệm vụ của chức tư tế này là phục vụ cộng đoàn, nhân danh và trong cương vị của Đức Ki-tô là Đầu.

1592. Tự bản chất, chức tư tế thừa tác khác với chức tư tế cộng đồng, vì ban một quyền thánh chức để phục vụ các tín hữu. Các thừa tác viên có chức thánh thực thi sự phục vụ của mình đối với dân Thiên Chúa qua việc giảng dạy (munus docendi), cử hành phụng vụ (munus liturgicum) và hướng dẫn mục vụ (munus regendi).

1593. Từ ban đầu, thừa tác vụ có chức thánh được trao ban và thể hiện theo ba cấp bậc: Giám mục, linh mục và phó tế. Các thừa tác vụ được trao ban qua bí tích Truyền Chức Thánh là không thể thay thế trong cấu trúc hữu cơ của Hội Thánh: không thể nói về Hội Thánh nếu không có Giám mục, linh mục và phó tế.92

1594. Giám mục lãnh nhận cách viên mãn bí tích Truyền Chức Thánh: bí tích này đưa ngài vào Giám mục đoàn và trở thành thủ lãnh hữu hình của Giáo Hội địa phương được ủy thác cho ngài. Với tư cách là người kế nhiệm các Tông Đồ và là thành viên của Giám mục đoàn, các Giám mục tham dự vào trách nhiệm tông đồ và sứ vụ của toàn thể Hội Thánh dưới quyền Đức Giáo Hoàng, Đấng kế nhiệm thánh Phê-rô.

1595. Các linh mục liên kết với các Giám mục trong phẩm chức tư tế và tùy thuộc các ngài trong công tác mục vụ. Các linh mục được mời gọi để trở thành cộng sự viên khôn ngoan của các Giám mục, họp thành linh mục đoàn (presbyterium) quanh Giám mục của mình, cùng chia sẻ trách nhiệm với ngài về Giáo Hội địa phương. Các linh mục được Giám mục trao trách nhiệm chăm sóc một cộng đoàn giáo xứ, hay chỉ định một công việc phục vụ Hội Thánh.

1596. Các phó tế là những thừa tác viên được phong chức để đảm nhận những trách nhiệm phục vụ Hội Thánh. Các phó tế không lãnh nhận chức tư tế thừa tác, nhưng việc phong chức trao cho họ những nhiệm vụ quan trọng trong thừa tác vụ rao giảng Lời Chúa, lo việc phụng tự, chăm sóc cộng đoàn và thực thi bác ái. Đó là những nhiệm vụ các vị ấy phải chu toàn dưới quyền mục vụ của Giám mục.

1597. Bí tích Truyền Chức Thánh được trao ban qua việc đặt tay của Giám mục tiếp theo là lời nguyện thánh hiến (truyền chức) trọng thể, cầu xin Chúa ban cho tiến chức những ân sủng của Chúa Thánh Thần, cần thiết cho thừa tác vụ. Bí tích Truyền Chức Thánh ghi dấu ấn tín không thể tẩy xóa.

1598. Hội Thánh chỉ truyền chức cho người nam đã được Rửa Tội, sau khi kiểm tra chắc chắn họ có khả năng thi hành chức vụ được giao. Chỉ có thẩm quyền của Hội Thánh có trách nhiệm và có quyền gọi một người nào đó lãnh nhận chức thánh.

1599. Trong Giáo Hội La-tinh, thường chỉ truyền chức linh mục cho các ứng viên tự nguyện sống độc thân và công khai biểu lộ ý muốn này vì yêu mến Nước Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.

1600. Quyền trao ban ba cấp bậc của bí tích Truyền Chức Thánh thuộc về các Giám mục.


Chú thích

4 X. Dt 5,6; 7,11; Tv 110,4.

5 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 10: AAS 57 (1965) 14.

6 X. Is 61,6.

7 X. Ds 1,48-53.

8 X. Gs 13,33.

9 X. Xh 29,1-30; Lv.8.

10 X. Dt 5,1.

11 X. Ml 2,7-9.

12 X. Dt 5,3; 7,27; 10,1-4.

13 X. Ds 11,24-25.

14 Pontificale Romanum. De Ordinatione Episcopi, presbyterorum et diaconorum, De Ordinatione Episcopi. Prex ordinationis, 47, editio typica altera (Typis Polyglottis Vaticanis 1990) 24.

15 Pontificale Romanum. De Ordinatione Episcopi, presbyterorum et diaconorum, De Ordinatione presbyterorum. Prex ordinationis, 159, editio typica altera (Typis Polyglottis Vaticanis 1990) 91-92.

16 Pontificale Romanum. De Ordinatione Episcopi, presbyterorum et diaconorum, De Ordinatione diaconorum. Prex ordinationis, 207, editio typica altera (Typis Polyglottis Vaticanis 1990) 121.

17 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Commentarium in epistolam ad Hebraeos, c. 7, lect. 4: Opera omnia, v. 21 (Parisiis 1876) 647.

18 X. Kh 1,6; 5,9-10; 1 Pr 2,5.9.

19 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 10: AAS 57 (1965) 14.

20 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 10: AAS 57 (1965) 14.

21 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 10: AAS 57 (1965) 14.

22 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 10: AAS 57 (1965) 14; Ibid., 28: AAS 57 (1965) 34; Id., Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 33: AAS 56 (1964) 108; Id., Sắc lệnh Christus Dominus, 11: AAS 58 (1966) 677; Id., Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 2: AAS 58 (1966) 992; Ibid., 6: AAS 58 (1966) 999.

23 ĐGH Pi-ô XII, Thông điệp Mediator Dei: AAS 14 (1947) 548.

24 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 22, a. 4, c: Ed. Leon. 11, 260.

25 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 21: AAS 57 (1965) 24.

26 X. Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Trallianos, 3, 1; SC 10bis, 96 (Funk 1,244); Id., Epistula ad Magnesios, 6,1: SC 10bis, 84 (Funk 1,234).

27 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 24: AAS 57 (1965) 29.

28 X. Mc 10,43-45; 1 Pr 5,3.

29 Thánh Gio-an Kim Khẩu, De sacerdotio, 2,4: SC 272,118 (PG 48,635); x. Ga 21,15-17.

30 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 33: AAS 56 (1964) 108.

31 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 10: AAS 57 (1965) 14.

32 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 28: AAS 57 (1965) 33-34.

33 Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Trallianos, 3,1: SC 10bis, 96 (Funk 1,244).

34 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 20: AAS 57 (1965) 23.

35 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 21: AAS 57 (1965) 24.

36 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 21: AAS 57 (1965) 25.

37 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 21: AAS 57 (1965) 25.

38 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Christus Dominus, 2: AAS 58 (1966) 674.

39 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 22: AAS 57 (1965) 26.

40 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 22: AAS 57 (1965) 26.

41 ĐGH Pi-ô XII, Thông điệp Fidei donum: AAS 49 (1957) 237; x. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 23: AAS 57 (1965) 27-28; Id., Sắc lệnh Christus Dominus, 4: AAS 58 (1966) 674-675; Ibid., 36: AAS 58 (1966) 692; Ibid., 37: AAS 58 (1966) 693; Id., Sắc lệnh Ad gentes, 5: AAS 58 (1966) 951-952; Ibid., 6: AAS 58 (1966) 952-953; Ibid., 38: AAS 58 (1966) 984-986.

42 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 41: AAS 56 (1964) 111 ; Id., Hiến chế tín lý Lumen gentium, 26: AAS 57 (1965) 31-32.

43 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 28: AAS 57 (1965) 33.

44 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 2: AAS 58 (1966) 992.

45 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 2: AAS 58 (1966) 992.

46 X. Dt 5,1-10; 7,24; 9,11-28.

47 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 28: AAS 57 (1965) 34.

48 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 10: AAS 58 (1966) 1007.

49 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Optatam totius, 20: AAS 58 (1966) 726.

50 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 28: AAS 57 (1965) 34.

51 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 2: AAS 58 (1966) 993.

52 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 28: AAS 57 (1965) 35.

53 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 8: AAS 58 (1966) 1003.

54 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 29: AAS 57 (1965) 36; x. Id., Sắc lệnh Christus Dominus, 15: AAS 58 (1966) 679.

55 X. Thánh Hippôlytô Rô-ma, Traditio apostolica, 8: ed. B. Botte (Mušnster i.W. 1989) 22-24.

56 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 41: AAS 57 (1965) 46; Id., Sắc lệnh Ad gentes, 16: AAS 58 (1966) 967.

57 X. Mc 10,45; Lc 22,27; Thánh Pôlycarpô, Epistula ad Philippenses, 5, 2: SC 10bis 182 (Funk 1,300).

58 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 29: AAS 57 (1965) 36; Id., Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 35, 4: AAS 56 (1964) 109; Id., Sắc lệnh Ad gentes, 16: AAS 58 (1966) 967.

59 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 29: AAS 57 (1965) 36.

60 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad gentes, 16: AAS 58 (1966) 967.

61 X. ĐGH Pi-ô XII, Tông hiến Sacramentum ordinis: DS 3858.

62 X. Pontificale Romanum. De Ordinatione Episcopi, presbyterorum et diaconorum, De Ordinatione presbyterorum. Traditio panis et vini, 163, editio typica altera (Typis Polyglottis Vaticanis 1990) 95.

63 X. Kinh tiền tụng lễ các Tông Đồ I: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 426.

64 X. Ep 4,11.

65 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 21: AAS 57 (1965) 24.

66 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 21: AAS 57 (1965) 24.

67 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 20: AAS 57 (1965) 23.

68 X. ĐGH Innôcentê III, Professio fidei Waldensibus praescripta: DS 794; CĐ La-tê-ra-nô IV, Cap. 1, De fide catholica : DS 802; Bộ Giáo Luật, điều 1012; Bộ Giáo Luật Đông phương, các điều 744.747.

69 Bộ Giáo Luật, điều 1024.

70 X. Mc 3,14-19; Lc 6,12-16.

71 X. 1 Tm 3,1-13; 2 Tm 1-6; Tt 1,5-9.

72 X. Thánh Clêmentê Rô-ma, Epistula ad Corinthios, 42,4: SC 167,168-170 (Funk 1,152); Ibid., 44,3: SC 167,172 (Funk 1,156).

73 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông thư Mulieris dignitatem, 26-27: AAS 80 (1988) 1715-1720; Id., Tông thư Ordinatio sacerdotalis: AAS 86 (1994) 545-548; Thánh bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn Inter insigniores: AAS 69 (1977) 98-116; Id., Responsum ad dubium circa doctrinam in Epist. Ap. “Ordinatio Sacerdotalis” traditam: AAS 87 (1995) 1114.

74 X. Dt 5,4.

75 X. 1 Cr 7,32.

76 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 16: AAS 58 (1966) 1015-1016.

77 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 16: AAS 58 (1966) 1015.

78 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 23a, Doctrina de sacramento Ordinis, c. 4: DS 1767; CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 21: AAS 57 (1965) 25 ; Ibid., 28: AAS 57 (1965) 34; Ibid., 29: AAS 57 (1965) 36; Id., Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 2: AAS 58 (1966) 992.

79 X. Bộ Giáo Luật, các điều 290-293. 1336,1, 3 và 5. 1338,2.

80 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 23a, Canones de sacramento Ordinis, canon 4: DS 1774.

81 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 7a, Canones de sacramentis in genere, canon 12: DS 1612; CĐ Constantiensê, Errores Iohannis Wyclif, 4: DS 1154.

82 Thánh Augustinô, In Iohannis evangelium tractatus, 5, 15: CCL 36,50 (PL 35,1422).

83 Pontificale Romanum. De Ordinatione Episcopi, presbyterorum et diaconorum, De Ordinatione Episcopi. Prex ordinationis, 47, editio typica altera (Typis Polyglottis Vaticanis 1990) 24.

84 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Christus Dominus, 13: AAS 58 (1966) 678-679; Ibid., 16: AAS 58 (1966) 680-681.

85 Thánh Hippôlytô Rô-ma, Traditio apostolica, 3: ed. B. Botte (Mušnster i.W. 1989) 8-10.

86 Liturgia Byzantina. 2 oratio chirotoniae presbyteralis: Eukologion to mega (Roma 1873) 136.

87 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 29: AAS 57 (1965) 36.

88 Thánh Grêgôriô thành Nazien, Oratio 2, 71: SC 247,184 (PG 35,480).

89 Thánh Grêgôriô thành Nazien, Oratio 2, 74: SC 247,186 (PG 35,481).

90 Thánh Grêgôriô thành Nazien, Oratio 2, 73: SC 247,186 (PG 35,481).

91 B. Nodet, Le Curé d’Ars, Sa pensée – son coeur (Le Puy 1966) 98.

92 X. Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Trallianos, 3, 1: SC 10bis, 96 (Funk 1,244).

Mục 7: Bí tích Hôn Phối (1601-1666)

1601. “Do giao ước hôn nhân, một người nam và một người nữ tạo thành một sự hiệp thông trọn cả cuộc sống; tự bản chất, giao ước ấy hướng về lợi ích của đôi bạn, cũng như đến việc sinh sản và giáo dục con cái; Chúa Ki-tô đã nâng giao ước hôn nhân giữa hai người đã được Rửa Tội lên hàng bí tích.”93

I. Hôn nhân trong kế hoạch của Thiên Chúa (1602-1620)

1602. 369, 796

Kinh Thánh mở đầu bằng việc tạo dựng người nam và người nữ theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa94 và kết thúc bằng viễn ảnh về “tiệc cưới Con Chiên” (Kh 19,9).95 Từ đầu đến cuối, Kinh Thánh nói về hôn nhân và mầu nhiệm hôn nhân, về việc thiết lập và ý nghĩa mà Thiên Chúa đã ban cho hôn nhân, về nguồn gốc và mục đích của hôn nhân, về những việc thực hiện khác nhau của hôn nhân qua dòng lịch sử cứu độ, về những khó khăn của hôn nhân phát sinh do tội lỗi, và việc canh tân hôn nhân “trong Chúa” (1 Cr 7,39), trong Giao Ước Mới của Đức Ki-tô và của Hội Thánh.96

Hôn nhân trong trật tự của công trình tạo dựng (1603-1605)

1603. 371, 2331, 2210

“Cộng đồng thân mật của đời sống và tình yêu hôn nhân, đã được Đấng Tạo hóa thiết lập và quy định những luật lệ cho nó. Chính Thiên Chúa là tác giả của hôn nhân.”97 Ơn gọi hôn nhân đã được khắc ghi trong chính bản tính của người nam và người nữ, như chính họ phát xuất từ bàn tay Đấng Tạo Hóa. Hôn nhân không phải chỉ là một định chế của phàm nhân, mặc dù đã có không ít những biến đổi mà hôn nhân đã trải qua suốt các thế kỷ, trong các nền văn hóa, cơ cấu xã hội và thái độ tinh thần khác nhau. Những sự khác biệt này không được làm quên đi những nét chung và trường tồn. Dù phẩm giá của định chế này không phải ở đâu cũng sáng tỏ như nhau,98 nhưng trong tất cả các nền văn hóa, vẫn có một ý thức nào đó về sự cao cả của việc kết hợp trong hôn nhân. “Ơn cứu độ của cá nhân và của xã hội nhân loại và xã hội Ki-tô Giáo, liên kết chặt chẽ với tình trạng lành mạnh của cộng đồng hôn nhân và gia đình.”99

1604. 355

Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng con người vì tình yêu, cũng đã kêu gọi họ đến tình yêu, đó là ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của mọi nhân vị. Thật vậy, con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa,100 Đấng chính “là Tình Yêu” (1 Ga 4,8.16). Vì Thiên Chúa đã dựng họ có nam có nữ, nên tình yêu hỗ tương của họ là một hình ảnh của tình yêu tuyệt đối và bất diệt Thiên Chúa dành để yêu con người. Dưới mắt Đấng Tạo Hóa, tình yêu này là tốt, là rất tốt.101 Và tình yêu này, được Thiên Chúa chúc phúc, được nhắm đến việc sinh sôi nảy nở và trong công trình chung, nhắm đến việc bảo tồn công trình tạo dựng: “Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: ‘Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất’” (St 1,28).

1605. 372, 1614

Kinh Thánh đã khẳng định rằng, người nam và người nữ được tạo dựng cho nhau: “Con người ở một mình thì không tốt” (St 2,18). Người nữ là “thịt bởi thịt” của người nam,102 nghĩa là bình đẳng với người nam, rất gần gũi với người nam, mà Thiên Chúa đã ban cho người nam với tư cách là một “trợ tá”,103 như vậy là người thay mặt Thiên Chúa để trợ giúp chúng ta.104 “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24). Chính Chúa cho thấy câu này nói lên sự hợp nhất cuộc đời hai người cách bất diệt, khi Người nhắc lại ý định “lúc khởi đầu” của Đấng Tạo Hóa:105 “Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt” (Mt 19,6).

Hôn nhân dưới sự kiểm soát của tội lỗi (1606-1608)

1606. Mọi người đều có kinh nghiệm về sự dữ chung quanh mình và nơi chính mình. Kinh nghiệm này cũng được cảm nghiệm trong các mối tương quan giữa người nam và người nữ. Sự hợp nhất của họ lúc nào cũng bị đe dọa bởi sự bất hòa, óc thống trị, sự bất trung, lòng ghen tương và sự xung đột, những điều đó có thể đưa đến hận thù và đoạn tuyệt. Sự xáo trộn này có thể được biểu lộ một cách nhiều hay ít gay gắt, và có thể được khắc phục nhiều hay ít tùy theo các nền văn hóa, các thời đại và các cá nhân, nhưng hình như sự xáo trộn đó có tính phổ quát.

1607. 1849, 400

Theo đức tin, sự xáo trộn này, mà chúng ta cảm nghiệm một cách đau lòng, không xuất phát từ bản tính của người nam và người nữ, cũng không do bản chất của các mối tương quan giữa họ, nhưng do tội lỗi. Nguyên tội, một sự chia lìa khỏi Thiên Chúa, đưa đến hậu quả đầu tiên là chia lìa sự hiệp thông nguyên thủy giữa người nam và người nữ. Tương quan của họ bị xáo trộn do việc đổ lỗi cho nhau;106 sự hấp dẫn lẫn nhau, là hồng ân riêng của Đấng Tạo Hóa,107 bị đổi thành những tương quan thống trị và ham muốn;108 ơn gọi đẹp đẽ của người nam và người nữ là sinh sôi nảy nở để tăng số và thống trị mặt đất109 đã trở nên nặng nề vì những hình phạt [là đau đớn] khi sinh con và [cực nhọc] khi lao động làm ra cơm bánh.110

1608. 55

Dù vậy, trật tự của công trình tạo dựng vẫn tồn tại, tuy bị xáo trộn nặng nề. Để chữa lành những vết thương do tội lỗi, người nam và người nữ cần đến sự trợ giúp của ân sủng mà Thiên Chúa, vì lòng thương xót vô biên của Ngài, không bao giờ từ chối ban cho họ.111 Không có sự trợ giúp này, người nam và người nữ không thể thực hiện được sự kết hợp cả cuộc đời của họ, điều mà “lúc khởi đầu” Thiên Chúa đã nhắm đến khi Ngài tạo dựng nên họ.

Hôn nhân dưới giáo huấn của Lề Luật (1609-1611)

1609. 410

Vì lòng thương xót của Ngài, Thiên Chúa không bỏ rơi con người tội lỗi. Những hình phạt theo sau tội lỗi, như đau đớn khi sinh con,112 lao động “đổ mồ hôi trán” (St 3,19) cũng là những phương thuốc ngăn bớt những tác hại của tội. Sau khi con người sa ngã, hôn nhân giúp vượt thắng tình trạng co cụm vào bản thân, “chủ nghĩa ích kỷ”, chỉ yêu mình, tìm khoái lạc riêng, và giúp con người mở ra cho tha nhân, trợ giúp lẫn nhau, và ban tặng chính mình.

1610. 1963, 2387

Ý thức luân lý về sự duy nhất và sự bất khả phân ly của hôn nhân được phát triển dần dưới giáo huấn của Luật cũ. Tục đa thê của các tổ phụ và các vua chưa bị đẩy lui cách rõ ràng. Nhưng Luật được ban cho ông Mô-sê đã nhắm đến việc bảo vệ người nữ chống lại sự độc đoán thống trị của người nam, mặc dù luật này cũng kèm theo, như lời Chúa nói, những dấu vết của “sự cứng lòng” của người nam, do đó ông Mô-sê đã cho phép rẫy vợ.113

1611. 219, 2380, 2361

Nhìn giao ước của Thiên Chúa với dân Ít-ra-en dưới hình ảnh của một tình yêu hôn nhân duy nhất và chung thủy,114 các Tiên tri đã chuẩn bị ý thức của Dân Chúa chọn để họ hiểu biết sâu xa hơn về tính duy nhất và tính bất khả phân ly của hôn nhân.115 Các sách Rút và Tô-bi-a đã nêu lên những chứng từ cảm động về ý nghĩa cao quý của hôn nhân, của lòng chung thủy và sự âu yếm phu phụ. Truyền thống luôn nhận thấy trong sách Diễm Ca sự diễn tả độc đáo về tình yêu của con người, như là tiếng vọng của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu “mãnh liệt như tử thần” và “nước lũ không dập tắt nổi” (Dc 8,6-7).

Hôn nhân trong Chúa (1612-1617)

1612. 521

Giao ước hôn nhân giữa Thiên Chúa và dân Ít-ra-en của Ngài đã chuẩn bị cho Giao ước mới và vĩnh cửu. Trong giao ước mới này, Con Thiên Chúa, Đấng nhập thể và hiến dâng mạng sống, một cách nào đó đã liên kết Người với toàn thể nhân loại được Người cứu độ,116 như vậy Người chuẩn bị cho “tiệc cưới của Con Chiên.”117

1613. Khởi đầu đời sống công khai, Chúa Giê-su đã thực hiện dấu lạ đầu tiên của Người118 – theo lời yêu cầu của Mẹ Người – trong một tiệc cưới. Hội Thánh coi việc Chúa Giê-su hiện diện trong tiệc cưới Ca-na có một tầm quan trọng đặc biệt. Hội Thánh coi đó là sự xác nhận tính thiện hảo của hôn nhân và là lời loan báo rằng hôn nhân từ đây về sau là dấu chỉ hữu hiệu về sự hiện diện của Đức Ki-tô.

1614. 2336, 2382

Trong khi Người rao giảng, Chúa Giê-su đã dạy một cách rõ ràng về ý nghĩa nguyên thủy của sự kết hợp giữa người nam và người nữ, đúng như Đấng Tạo hóa đã muốn ngay từ lúc khởi đầu. Việc ông Mô-sê cho phép rẫy vợ là một nhượng bộ trước lòng chai dạ đá.119 Sự kết hợp hôn nhân giữa người nam và người nữ là bất khả phân ly: chính Thiên Chúa đã thực hiện sự kết hợp đó: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6).

1615. 2364, 1642

Lời nhấn mạnh rõ ràng về tính bất khả phân ly của dây hôn nhân làm cho nhiều người ngỡ ngàng và coi đó là một đòi hỏi không thể thực hiện được.120 Tuy nhiên, Chúa Giê-su đã không đặt cho các đôi phối ngẫu một gánh không thể mang nổi và quá nặng nề,121 nặng nề hơn luật Mô-sê. Khi đến để tái lập trật tự ban đầu của công trình tạo dựng, đã bị xáo trộn vì tội lỗi, chính Người ban sức mạnh và ân sủng để con người sống đời hôn nhân theo chiều kích mới của Nước Thiên Chúa. Khi bước theo Đức Ki-tô bằng cách từ bỏ mình và vác thập giá mình,122 các đôi phối ngẫu có thể “hiểu được”123 ý nghĩa nguyên thủy của hôn nhân và sống với ý nghĩa đó nhờ sự trợ giúp của Đức Ki-tô. Ân sủng này của hôn nhân Ki-tô Giáo là hoa trái của Thập Giá Đức Ki-tô, nguồn mạch của toàn bộ đời sống Ki-tô hữu.

1616. Tông Đồ Phao-lô làm sáng tỏ điều đó khi nói: “Người làm chồng hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh” (Ep 5,25-26). Thánh nhân còn nói thêm: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh” (Ep 5,31-32).

1617. 796

Toàn bộ đời sống Ki-tô hữu mang dấu chỉ của tình yêu phu thê giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh. Bí tích Rửa Tội, cửa dẫn vào dân Thiên Chúa, đã là một mầu nhiệm hôn ước; bí tích đó có thể nói được là như một thanh tẩy chuẩn bị hôn lễ124 diễn ra trước bữa tiệc cưới, là bí tích Thánh Thể. Hôn nhân Ki-tô Giáo, đến lượt mình, trở thành dấu chỉ hữu hiệu, trở thành bí tích của giao ước giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh. Bởi vì nó nói lên và truyền thông ân sủng của giao ước đó, nên hôn nhân giữa hai người đã được Rửa Tội là một bí tích thật sự của Giao Ước Mới.125

Bài này đã được xem 5692 lần!

Pages ( 57 of 96 ): <1 ... 5556 57 5859 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]