Trinh khiết vì Nước [Trời] (1618-1620)
1618. 2232, 1579
Đức Ki-tô là trọng tâm của toàn bộ đời sống Ki-tô Giáo. Dây liên kết với Người chiếm vị trí hàng đầu so với mọi dây liên kết khác về gia đình hay xã hội.126 Ngay thuở ban đầu của Hội Thánh, đã có những người nam và người nữ từ bỏ lợi ích lớn lao của hôn nhân để theo Con Chiên đi bất cứ nơi nào Người đi,127 để chuyên lo việc của Chúa, để tìm cách làm đẹp lòng Người,128 và để đi đón Tân Lang đang đến.129 Chính Đức Ki-tô đã mời gọi một số người đi theo Người trong cách sống này, cách sống mà Người luôn là mẫu mực:
“Có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu” (Mt 19,12).
1619. 922-924
Trinh khiết vì Nước Trời là sự triển khai ân sủng bí tích Rửa Tội, là dấu chỉ nổi bật cho sự ưu tiên tuyệt đối của mối liên kết với Đức Ki-tô và cho sự sốt sắng mong chờ Người lại đến, và cũng là một dấu chỉ nhắc nhớ rằng hôn nhân là một thực tại của thế giới hiện tại đang qua đi.130
1620. 2349
Cả hai, bí tích Hôn nhân và đời sống trinh khiết vì Nước Thiên Chúa, đều phát xuất từ chính Chúa. Chính Ngài ban cho cả hai, ý nghĩa và ân sủng cần thiết để sống theo thánh ý Ngài.131 Việc đánh giá sự trinh khiết vì Nước Trời132 và ý nghĩa Ki-tô Giáo của Hôn nhân là không thể tách rời nhau và hỗ trợ cho nhau:
“Ai hạ giá hôn nhân, thì người đó cũng hạ giá sự vinh quang của đức trinh khiết; ai ca ngợi hôn nhân, thì người đó càng khâm phục đức trinh khiết. Bởi vì điều gì còn phải so sánh với một điều xấu hơn mới thấy là tốt, thì đó chưa phải là hoàn toàn tốt; còn điều gì tốt hơn những cái mọi người cho là tốt, thì đó mới là điều tốt tuyệt hảo.”133
II. Cử hành bí tích Hôn Phối (1621-1624)
1621. 1323, 1368
Trong nghi lễ La-tinh, bí tích Hôn Phối giữa hai tín hữu Công giáo thường được cử hành trong thánh lễ, vì tất cả các bí tích đều liên kết với mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô.134 Trong thánh lễ, việc tưởng niệm Giao Ước Mới được thực hiện, trong đó Đức Ki-tô đã kết hợp Người cách vĩnh viễn với Hiền Thê yêu dấu của Người là Hội Thánh, vì Hội Thánh đó mà Người đã nộp mình.135 Vì vậy, đôi phối ngẫu phải đóng ấn sự ưng thuận trao tặng chính mình cho nhau bằng lễ dâng cuộc đời họ, khi họ kết hợp sự ưng thuận đó với lễ dâng hiện tại của Đức Ki-tô vì Hội Thánh Người, được hiện thực trong Hy lễ Thánh Thể, và khi họ rước lễ, để nhờ hiệp thông với chính Mình và Máu Đức Ki-tô, họ làm nên “một thân thể” trong Đức Ki-tô.136
1622. 1422
“Nghi lễ hôn phối là một hành vi bí tích để thánh hóa, nên phải được cử hành một cách thành sự, xứng đáng và sinh hiệu quả.”137 Vì vậy, để dọn mình cử hành bí tích Hôn Phối, hai người phải lãnh nhận bí tích Giao Hòa.
1623. Theo truyền thống La-tinh, chính đôi tân hôn, với tư cách là các thừa tác viên của ân sủng của Đức Ki-tô, tự trao ban bí tích Hôn Phối cho nhau, khi bày tỏ sự ưng thuận kết hôn trước mặt Hội Thánh. Trong truyền thống các Giáo Hội Đông phương, các tư tế, Giám mục hay linh mục, là những nhân chứng cho sự ưng thuận hỗ tương được trao đổi giữa các người phối ngẫu,138 nhưng lời chúc lành của các ngài cũng cần thiết để bí tích nên thành sự.139
1624. 736
Các nền phụng vụ khác nhau có nhiều lời nguyện chúc lành và lời nguyện khẩn cầu Chúa Thánh Thần, xin Thiên Chúa ban tràn đầy ân sủng và phúc lành của Ngài cho đôi tân hôn, đặc biệt cho người vợ. Trong lời nguyện khẩn cầu Chúa Thánh Thần của bí tích này, đôi tân hôn lãnh nhận Chúa Thánh Thần xét như sự hiệp thông tình yêu giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh.140 Chính Chúa Thánh Thần là dấu ấn hôn ước của họ, Ngài luôn luôn là nguồn mạch cho tình yêu dâng hiến của họ, và là sức mạnh giúp họ chung thủy với nhau.
III. Sự ưng thuận kết hôn (1625-1637)
1625. 1734
Hôn ước được ký kết giữa người nam và người nữ, cả hai đã được rửa tội và tự do để kết hôn, và họ tự nguyện bày tỏ sự ưng thuận của mình. “Tự do” nghĩa là:
– không bị ép buộc;
– không bị ngăn trở theo luật tự nhiên hay giáo luật.
1626. 2201
Hội Thánh coi việc trao đổi sự ưng thuận giữa hai người phối ngẫu như là yếu tố cần thiết “làm nên hôn nhân.”141 Nếu thiếu sự ưng thuận, thì không có hôn nhân.
1627. Sự ưng thuận là một “hành vi nhân linh, qua đó hai người phối ngẫu trao thân cho nhau và đón nhận nhau”:142 “Anh nhận em làm vợ anh…”; “Em nhận anh làm chồng em…”143 Sự ưng thuận này kết hợp hai người phối ngẫu với nhau, đạt đến sự hoàn hợp (consummationem) khi hai người “trở nên một xác thịt.”144
1628. 1735
Sự ưng thuận phải là một hành vi ý chí của mỗi người phối ngẫu, tự do không bị tác động vì bạo lực hay vì sợ hãi nghiêm trọng từ bên ngoài.145 Không có thế lực nhân loại nào có thể thay thế sự ưng thuận đó.146 Nếu thiếu sự tự do này, thì hôn nhân không thành sự.
1629. Vì lý do này (hay vì những lý do khác làm cho hôn nhân trở nên vô hiệu và tiêu hôn)147 Hội Thánh, sau khi xét duyệt các điều kiện qua tòa án hôn phối có thẩm quyền, có thể tuyên bố “sự vô hiệu của hôn nhân”, nghĩa là hôn nhân đó đã không hề thành sự. Trong trường hợp này, hai người được tự do kết hôn, nhưng họ vẫn phải giữ những nghĩa vụ tự nhiên do sự kết hợp trước.148
1630. Tư tế (hay phó tế), chứng kiến việc cử hành Hôn Phối, nhân danh Hội Thánh nhận lời ưng thuận của đôi tân hôn và ban cho họ lời chúc lành của Hội Thánh. Sự hiện diện của thừa tác viên Hội Thánh (và của cả những nhân chứng) diễn tả cách rõ ràng rằng, hôn nhân là một thực tại có chiều kích Hội Thánh.
1631. 1069, 1537, 2365
Vì lý do này, Hội Thánh thường đòi buộc các tín hữu của mình phải kết hôn theo thể thức của Hội Thánh149. Có nhiều lý do để giải thích quy định này:
– Hôn nhân mang tính bí tích là một hành vi phụng vụ. Bởi vậy nên được cử hành trong phụng vụ công khai của Hội Thánh;
– Hôn nhân đưa người ta vào một bậc sống trong Hội Thánh, mang lại những quyền lợi và nghĩa vụ trong Hội Thánh giữa đôi phối ngẫu và đối với con cái;
– Bởi vì hôn nhân là một bậc sống trong Hội Thánh, nên cần thiết phải có sự chắc chắn về hôn nhân (vì vậy, bắt buộc phải có các nhân chứng);
– Tính chất công khai của sự ưng thuận bảo vệ sự ưng thuận đó sau khi nó đã được thực hiện, và trợ giúp người ta chung thủy với lời ưng thuận đó.
1632. 2206, 2350
Để sự ưng thuận của hai người phối ngẫu là một hành vi tự do và có trách nhiệm, và để cho hôn ước có được những nền tảng nhân bản và Ki-tô Giáo một cách vững chắc và lâu bền, việc chuẩn bị hôn nhân là hết sức quan trọng:
– Gương sáng và sự giáo dục do cha mẹ và gia đình luôn là con đường đặc biệt cho việc chuẩn bị này.
– Nhiệm vụ của các mục tử và của cộng đoàn Ki-tô hữu, như là “của gia đình Thiên Chúa”, là cần thiết để trao ban những giá trị nhân bản và Ki-tô Giáo về hôn nhân và gia đình,150 nhất là trong thời đại chúng ta, nhiều bạn trẻ đã cảm nghiệm những cảnh gia đình tan vỡ, các gia đình này không còn mang lại đầy đủ được sự khai tâm như vậy:
“Những người trẻ phải được giáo dục cách thích hợp và đúng lúc, tốt nhất là trong khung cảnh gia đình mình, về phẩm giá, nhiệm vụ và công việc của tình yêu phu phụ, để sau khi đã được dạy dỗ bảo toàn đức khiết tịnh, lúc đến tuổi thích hợp, họ có thể từ thời kỳ đính hôn trong trắng bước vào đời sống hôn nhân.”151
Hôn nhân hỗn hợp và khác đạo (1633-1637)
1633. Trong nhiều miền, rất thường có những hôn nhân hỗn hợp (giữa người Công giáo và người được rửa tội ngoài Công giáo). Tình trạng này đòi hỏi phải có sự lưu tâm đặc biệt của những người phối ngẫu cũng như của các mục tử. Trường hợp hôn nhân khác đạo (giữa người Công giáo và người không được rửa tội) lại càng phải cẩn thận quan tâm hơn nữa.
1634. 817
Việc những người phối ngẫu thuộc những Giáo Hội Ki-tô khác nhau không tạo nên một ngăn trở không thể vượt qua đối với hôn nhân, khi hai người đóng góp cho nhau những gì mỗi người đã lãnh nhận nơi cộng đoàn của mình, và học hỏi lẫn nhau cách sống trung thành với Đức Ki-tô. Nhưng không được coi thường những khó khăn trong các cuộc hôn nhân hỗn hợp. Những khó khăn này xuất phát từ sự chia rẽ giữa các Ki-tô hữu, đến nay vẫn chưa được giải quyết. Đôi phối ngẫu có nguy cơ phải cảm nghiệm cách bi thảm sự chia rẽ của các Ki-tô hữu ngay trong gia đình của mình. Việc khác đạo càng có thể khiến cho các khó khăn nói trên trở nên trầm trọng hơn. Những khác biệt về đức tin, chính quan niệm về hôn nhân, và cả những não trạng tôn giáo khác nhau, có thể tạo thành cội nguồn cho những căng thẳng trong hôn nhân, nhất là đối với vấn đề giáo dục con cái. Từ đó có thể đưa đến một nguy cơ là sự dửng dưng về tôn giáo.
1635. Theo luật hiện hành của Giáo Hội La-tinh, hôn nhân hỗn hợp chỉ hợp pháp khi có phép minh nhiên của giáo quyền.152 Còn trường hợp khác đạo, thì phải có phép chuẩn minh nhiên để miễn chuẩn khỏi ngăn trở, thì hôn nhân khác đạo mới thành sự153. Muốn được phép hay được chuẩn, phải giả thiết rằng cả hai đương sự biết rõ và không loại trừ những mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân; riêng bên Công giáo cam kết thi hành những đòi buộc, là giữ đức tin của mình, và bảo đảm cho con cái được rửa tội và giáo dục trong Hội Thánh Công giáo, và phải thông báo cho bên không Công giáo biết rõ những điều ấy.154
1636. 821
Trong nhiều miền, nhờ cuộc đối thoại đại kết, một số cộng đoàn Ki-tô hữu đã tổ chức sinh hoạt mục vụ chung cho các đôi hôn nhân hỗn hợp. Nhiệm vụ của sinh hoạt này là giúp cho các đôi phối ngẫu biết sống hoàn cảnh đặc biệt của họ dưới ánh sáng đức tin. Sinh hoạt đó cũng phải giúp họ vượt thắng những căng thẳng giữa các bổn phận của họ đối với nhau và đối với các cộng đoàn Giáo Hội của họ. Sinh hoạt mục vụ chung phải khuyến khích làm tăng trưởng những gì đối với họ là chung trong đức tin, và tôn trọng những gì còn làm họ chia rẽ.
1637. Trong các hôn nhân khác đạo, người phối ngẫu Công giáo có một nhiệm vụ đặc biệt: “Chồng ngoại đạo được thánh hóa nhờ vợ và vợ ngoại đạo được thánh hóa nhờ người chồng có đạo” (1 Cr 7,14). Thật là một niềm vui lớn cho người phối ngẫu Ki-tô hữu và cho Hội Thánh nếu “việc thánh hoá” này đưa người phối ngẫu kia tự nguyện trở lại với đức tin Ki-tô Giáo.155 Tình yêu phu phụ chân thành, việc thực hành cách khiêm tốn và nhẫn nại những đức tính thuộc gia đình và việc kiên trì cầu nguyện có thể chuẩn bị cho người phối ngẫu không có đức tin đón nhận được ơn hối cải.
IV. Những hiệu quả của bí tích Hôn Phối (1638-1642)
1638. “Từ cuộc hôn nhân thành sự giữa những người phối ngẫu nảy sinh một mối dây liên kết vĩnh viễn và độc hữu tự bản chất; ngoài ra, trong hôn nhân Ki-tô Giáo, những người phối ngẫu được củng cố và như được thánh hiến do một bí tích đặc biệt để chu toàn nghĩa vụ và nâng cao phẩm giá bậc sống của mình.”156
Dây Hôn Phối (1639-1640)
1639. Sự ưng thuận, qua đó hai người phối ngẫu tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, được chính Thiên Chúa đóng ấn.157 Từ hôn ước của họ “phát sinh một định chế vững chắc theo ý định của Thiên Chúa và có giá trị trước mặt xã hội.”158 Hôn ước của đôi phối ngẫu được lồng vào trong giao ước giữa Thiên Chúa với nhân loại: “Tình yêu phu phụ đích thực được đón nhận vào trong tình yêu Thiên Chúa.”159
1640. 2365
Dây hôn phối được chính Thiên Chúa thiết đặt, đến độ hôn nhân thành nhận và hoàn hợp (ratum et consummatum) giữa hai người đã được rửa tội, không bao giờ có thể được tháo gỡ. Dây liên kết này, là do một hành vi nhân linh tự do của đôi phối ngẫu và do sự hoàn hợp hôn phối, là một thực tại từ nay không thể rút lại, và là nguồn gốc của một giao ước đã được bảo đảm bởi sự trung tín của Thiên Chúa. Hội Thánh không có quyền tuyên bố trái ngược với sự an bài khôn ngoan này của Thiên Chúa.160
Ân sủng của bí tích Hôn Phối (1641-1642)
1641. “Các đôi phối ngẫu Ki-tô hữu có hồng ân riêng cho bậc sống của mình trong dân Thiên Chúa.”161 Ân sủng riêng biệt này của bí tích Hôn Phối là để kiện toàn tình yêu phu phụ, củng cố sự hợp nhất bất khả phân ly của họ. Nhờ ân sủng này, “họ giúp nhau nên thánh trong đời sống hôn nhân và trong việc đón nhận và giáo dục con cái.”162
1642. 1615, 796
Đức Ki-tô là nguồn mạch của ân sủng này. “Cũng như xưa kia, Thiên Chúa đến gặp dân Ngài bằng một giao ước tình yêu và trung thành, thì ngày nay, Đấng Cứu Độ loài người và là Phu Quân của Hội Thánh, cũng đến gặp các đôi phối ngẫu Ki-tô hữu qua bí tích Hôn Phối.”163 Người ở lại với họ, ban sức mạnh cho họ để họ nhận lấy thập giá của mình mà bước theo Người, để họ trỗi dậy sau khi sa ngã, để họ tha thứ cho nhau, để họ vác lấy gánh nặng của nhau,164 để họ “tùng phục lẫn nhau vì lòng kính sợ Đức Ki-tô” (Ep 5,21), và yêu thương nhau bằng một tình yêu siêu nhiên, tế nhị và sinh sôi nảy nở. Thiên Chúa ban cho họ, ngay từ đời này, trong những niềm vui của tình yêu và của đời sống gia đình họ, được nếm trước tiệc cưới Con Chiên:
“Làm sao chúng ta có thể mô tả được niềm hạnh phúc của cuộc hôn nhân được Hội Thánh nối kết, được hy lễ củng cố, được lời chúc lành đóng ấn, được các Thiên thần công bố và được Cha trên trời chuẩn nhận? Có đôi bạn nào bằng đôi bạn tín hữu, được kết hợp do cùng một niềm hy vọng, cùng một ước nguyện, cùng một kỷ luật, cùng một công việc phục vụ. Cả hai là anh em (con một Cha), là đồng phục vụ (cho một Chủ); không bị phân rẽ trong tinh thần và trong xác thịt, thật sự là hai trong một xác thịt. Ở đâu xác thịt nên một, thì tinh thần cũng nên một.”165
V. Những điều tốt lành và những đòi hỏi của tình yêu phu phụ (1643-1654)
1643. 2361
“Tình yêu phu phụ là một tổng thể bao gồm mọi yếu tố của con người: những đòi hỏi của thân xác và bản năng, những sức mạnh của giác quan và tình cảm, những khát khao của tinh thần và ý chí; tình yêu đó nhắm đến sự hợp nhất bản thân sâu xa, một sự hợp nhất rõ ràng là vượt quá việc chỉ nên một về thể xác, để trở thành một trái tim và một tâm hồn; tình yêu ấy thật sự đòi hỏi sự bất khả phân ly và lòng chung thủy khi trao hiến cho nhau một cách dứt khoát, và mở ngỏ cho việc sinh sản. Nói tóm lại, đây là những đặc điểm thông thường của bất cứ tình yêu phu phụ tự nhiên nào, nhưng mang một ý nghĩa mới mẻ, một ý nghĩa không những thanh luyện và củng cố những đặc điểm đó, mà còn nâng cao chúng lên đến độ chúng được coi là biểu hiện của những điều thiện hảo riêng biệt của Ki-tô Giáo.”166
Tính duy nhất và tính bất khả phân ly của hôn nhân (1644-1645)
1644. Tự bản chất của nó, tình yêu phu phụ đòi hỏi sự duy nhất và sự bất khả phân ly của cộng đồng nhân vị của họ trong suốt cuộc đời họ: “Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6).167 “Họ được mời gọi không ngừng lớn lên trong tình hiệp thông với nhau qua việc trung thành mỗi ngày với lời cam kết hôn nhân là trao hiến trọn vẹn cho nhau.”168 Sự hiệp thông phàm nhân này được củng cố, thanh luyện và hoàn thiện nhờ sự hiệp thông trong Đức Ki-tô, được ban tặng nhờ bí tích Hôn Phối. Sự hiệp thông đó càng thâm sâu hơn nhờ cùng sống đức tin chung với nhau và cùng lãnh nhận bí tích Thánh Thể chung với nhau.
1645. 369
“Tính duy nhất của hôn nhân mà Chúa đã xác nhận, được biểu lộ cách rõ ràng qua việc phẩm giá cá nhân bình đẳng giữa người nam và người nữ được nhìn nhận trong sự yêu thương lẫn nhau cách trọn vẹn.”169
Tục đa thê là trái ngược với phẩm giá bình đẳng này và với tình yêu phu phụ, vì tình yêu này là duy nhất và độc chiếm (unicus et exclusivus).170
Sự chung thủy trong tình yêu phu phụ (1646-1651) [2364-2365]
1646. Tự bản chất của nó, tình yêu phu phụ đòi hỏi đôi phối ngẫu phải chung thủy một cách bất khả xâm phạm. Đây là hệ quả của việc chính đôi phối ngẫu đã tự hiến cho nhau. Tình yêu phải là vĩnh viễn; tình yêu không thể có tính cách “cho tới khi có một quyết định mới.” “Sự nên một thân mật, nghĩa là việc hai người trao hiến cho nhau, cũng như lợi ích của con cái, đòi hỏi đôi phối ngẫu phải hoàn toàn chung thủy và đòi buộc nơi họ sự duy nhất bất khả phân ly.”171
Bài này đã được xem 7995 lần!