1647. Động lực sâu xa nhất của sự chung thủy căn cứ trên sự trung tín của Thiên Chúa với giao ước của Ngài, sự trung tín của Đức Ki-tô với Hội Thánh. Nhờ bí tích Hôn Phối, đôi phối ngẫu được ban ơn để thể hiện và làm chứng cho sự chung thủy đó. Do bí tích, tính bất khả phân ly của hôn nhân đón nhận một ý nghĩa mới mẻ và sâu xa hơn.
1648. Ràng buộc suốt đời mình với một người khác có thể được coi là rất khó, thậm chí là điều không thể thực hiện được. Do đó, điều hết sức quan trọng là phải loan báo Tin Mừng này: Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vĩnh viễn và không rút lại, đôi phối ngẫu được dự phần vào tình yêu đó của Thiên Chúa, một tình yêu hướng dẫn và nâng đỡ họ, và nhờ sự chung thủy với nhau, họ có thể là chứng nhân cho tình yêu trung tín của Thiên Chúa. Những đôi phối ngẫu nào, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, làm chứng được như vậy, thường là trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn, đáng được cộng đoàn Hội Thánh biết ơn và hỗ trợ.172
1649. 2383
Tuy nhiên, có những hoàn cảnh thực tế đôi phối ngẫu không thể tiếp tục sống chung được, vì rất nhiều lý do khác nhau. Trong những trường hợp này, Hội Thánh chấp nhận sự ly thân và chấm dứt việc sống chung của đôi phối ngẫu. Họ vẫn là chồng, là vợ của nhau trước mặt Thiên Chúa; họ không được tự do để ký kết một hôn ước mới. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, giải pháp tốt nhất, nếu có thể, là hòa giải với nhau. Cộng đoàn Ki-tô hữu được mời gọi trợ giúp những người đó sống đời Ki-tô hữu trong hoàn cảnh của họ, luôn chung thủy với dây hôn phối vẫn bất khả phân ly của họ.173
1650. 2384
Nhiều người Công giáo, ở một số nơi, đã ly dị và tái hôn theo luật đời. Hội Thánh, vì trung thành với lời của Chúa Giê-su Ki-tô (“Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình”: Mc 10,11-12), nên không thể công nhận việc tái hôn như vậy là thành sự, nếu hôn nhân lần đầu đã thành sự. Nếu những người đã ly dị lại tái hôn theo luật đời, thì họ ở trong tình trạng vi phạm luật Thiên Chúa một cách khách quan. Kể từ lúc đó, họ không được rước lễ, bao lâu còn sống trong tình trạng này. Cũng vì vậy, họ không thể đảm nhận một số trách nhiệm trong Hội Thánh. Sự giao hòa qua bí tích Thống Hối chỉ có thể được ban cho những ai thống hối vì mình đã vi phạm dấu chỉ của giao ước và của sự trung thành với Đức Ki-tô, và tự buộc mình sống tiết dục trọn vẹn.
1651. Đối với những Ki-tô hữu đang sống trong tình trạng như vậy mà vẫn giữ đức tin và ao ước giáo dục con cái họ theo Ki-tô Giáo, các tư tế và toàn thể cộng đoàn phải tỏ ra ân cần quan tâm, để họ đừng tự coi như bị tách lìa khỏi Hội Thánh: họ có thể và phải tham gia vào đời sống của Hội Thánh với tư cách là những người đã được rửa tội:
“Họ được khuyến khích nghe Lời Chúa, tham dự Hy tế Thánh lễ, kiên trì cầu nguyện, góp phần vào các việc bác ái và các việc phục vụ đức công bằng của cộng đoàn, giáo dục con cái trong đức tin Ki-tô Giáo, sống tinh thần thống hối và làm các việc đền tội, để như vậy, hằng ngày họ nài xin Thiên Chúa ban ân sủng.”174
Sẵn sàng đón nhận con cái (1652-1654) [2366-2367]
1652. 372
“Tự bản chất, chính định chế hôn nhân và tình yêu phu phụ hướng tới việc truyền sinh và giáo dục con cái và qua những việc đó, chúng như đạt tới tột đỉnh vinh quang của mình.”175
“Con cái là hồng ân cao quý nhất của hôn nhân và mang lại tối đa niềm hạnh phúc cho chính các cha mẹ. Chính Thiên Chúa đã phán: ‘Con người ở một mình thì không tốt’ (St 2,18); Ngài là Đấng ‘thuở ban đầu… đã làm ra con người có nam có nữ’ (Mt 19,4); chính Ngài muốn ban cho con người được tham gia đặc biệt vào công trình tạo dựng của Ngài, nên Ngài đã chúc lành cho người nam và người nữ và phán: ‘Hãy sinh sôi nảy nở’ (St 1,28). Từ đó, vinh dự đích thực của tình yêu phu phụ và toàn bộ kế hoạch của đời sống gia đình phát sinh từ tình yêu đó, tuy không hạ giá những mục đích khác của hôn nhân, đều hướng đến việc đôi phối ngẫu phải can đảm sẵn sàng cộng tác với tình yêu của Đấng Tạo hóa và Cứu Độ, Đấng nhờ họ làm cho gia đình của Ngài ngày càng phát triển và phong phú.”176
1653. 2231
Sự phong phú của tình yêu phu phụ còn trải rộng đến các kết quả của đời sống luân lý, tinh thần và siêu nhiên, được cha mẹ truyền cho con cái họ qua việc giáo dục. Cha mẹ là những nhà giáo dục đầu tiên và quan trọng nhất của con cái họ.177 Theo nghĩa này, nhiệm vụ căn bản của hôn nhân và gia đình là phục vụ cho sự sống.178
1654. Những đôi phối ngẫu không được Thiên Chúa ban cho có con cái, vẫn có thể có đời sống hôn nhân đầy ý nghĩa trên bình diện nhân bản, cũng như bình diện Ki-tô Giáo. Hôn nhân của họ có thể tỏa sáng bằng sự sinh sôi nảy nở lòng bác ái, sự đón nhận và hy sinh.
VI. Hội Thánh tại gia (1655-1658)
1655. 759
Đức Ki-tô đã muốn được sinh ra và lớn lên trong gia đình thánh của thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a. Hội Thánh không là gì khác hơn là “gia đình của Thiên Chúa.” Ngay từ những buổi đầu, hạt nhân của Hội Thánh thường gồm những người trở thành tín hữu “cùng với cả nhà.”179 Khi trở lại, họ ao ước cho “cả nhà mình” cũng được cứu độ.180 Những gia đình trở thành tín hữu này, là những tiểu đảo của đời sống Ki-tô Giáo giữa một thế giới ngoại giáo.
1656. 2204
Ngày nay, giữa một thế giới thường xa lạ và thậm chí thù nghịch với đức tin, gia đình các tín hữu là hết sức quan trọng, với tính cách là những lò lửa đức tin sống động và chiếu sáng. Vì vậy, Công đồng Va-ti-ca-nô II dùng một thuật ngữ cổ xưa, gọi gia đình là Hội Thánh tại gia (Ecclesia domestica)181. Trong tổ ấm gia đình, cha mẹ phải là “những người đầu tiên truyền dạy đức tin cho con cái mình, bằng lời nói và gương sáng, cũng như cổ võ ơn gọi riêng của từng đứa con, đặc biệt quan tâm đến ơn gọi thánh thiêng.”182
1657. 1268, 2214-2231, 2685
Nơi đây, một cách đặc biệt, người cha, người mẹ, con cái, mọi phần tử trong gia đình, thực thi chức tư tế do Phép Rửa “trong việc lãnh nhận các bí tích, trong kinh nguyện và tạ ơn, qua chứng từ của một đời sống thánh thiện, qua sự từ bỏ, và qua lòng bác ái sống động.”183 Bằng cách đó, gia đình là trường học đầu tiên về đời sống Ki-tô hữu và là “một trường học làm người cách phong phú hơn.”184 Ở đó, người ta học được sự kiên nhẫn và niềm vui của lao động, tình yêu thương huynh đệ, sự tha thứ quảng đại, thậm chí tha thứ nhiều lần, và nhất là việc phụng thờ Thiên Chúa qua kinh nguyện và qua sự hiến dâng cuộc đời mình.
1658. 2231, 2233
Cũng phải nhắc đến một số người, phải sống trong những hoàn cảnh cụ thể – và thường là ngoài ý muốn – đặc biệt gần gũi với trái tim Chúa Giê-su, họ đáng được Hội Thánh, nhất là các mục tử, yêu thương và quan tâm chăm sóc: đó là đông đảo những người sống độc thân. Nhiều người trong số này không lập gia đình được, thường vì điều kiện nghèo khổ. Trong hoàn cảnh của mình, có những người sống theo tinh thần các mối phúc, phục vụ Thiên Chúa và tha nhân một cách gương mẫu. Phải mở ra cho tất cả những người này, cánh cửa của các gia đình là “Hội Thánh tại gia” và cánh cửa của gia đình lớn là Hội Thánh. “Trên đời này, không ai phải thiếu gia đình: vì Hội Thánh là nhà và là gia đình cho tất cả mọi người, nhất là cho những ai ‘đang vất vả mang gánh nặng nề’ (Mt 11,28).”185
Tóm lược (1659-1666)
1659. Thánh Phao-lô nói: “Người làm chồng hãy yêu thương vợ như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh… Mầu nhiệm này thật cao cả, Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh” (Ep 5,25.32).
1660. Hôn ước mà nhờ đó người nam và người nữ tạo nên một cộng đồng sống chung và yêu nhau thân mật, đã được Đấng Tạo hóa thiết lập và sắp xếp theo những quy luật riêng. Tự bản chất, hôn nhân hướng tới thiện ích của đôi phối ngẫu, cũng như việc sinh sản và giáo dục con cái. Hôn nhân giữa những người đã chịu Phép Rửa được Đức Ki-tô nâng lên hàng bí tích.186
1661. Bí tích Hôn Phối biểu thị sự kết hợp giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh. Bí tích này ban ơn giúp các đôi phối ngẫu yêu thương nhau như Đức Ki-tô đã yêu thương Hội Thánh. Ân sủng của bí tích kiện toàn tình yêu tự nhiên của các đôi phối ngẫu, củng cố sự hợp nhất bất khả phân ly của họ và thánh hóa họ trên đường tiến về đời sống vĩnh cửu.187
1662. Hôn nhân đặt nền tảng trên sự ưng thuận của cả hai bên ký kết hôn ước, nghĩa là trên ý muốn vĩnh viễn hiến thân cho nhau để sống giao ước tình yêu chung thủy và sinh sôi nảy nở.
1663. Hôn nhân làm cho các người phối ngẫu sống một bậc sống công khai trong Hội Thánh, nên phải cử hành hôn nhân cách công khai trong khung cảnh một cử hành phụng vụ, trước sự chứng kiến của vị tư tế (hay của người chứng hôn được Hội Thánh cho phép), các nhân chứng và cộng đoàn tín hữu.
1664. Các đặc tính chính yếu của hôn nhân là duy nhất, bất khả phân ly và đón nhận con cái. Tục đa thê đi ngược lại tính duy nhất của hôn nhân. Ly dị phân ly điều Thiên Chúa đã phối hợp. Từ chối sinh sản, đời sống hôn nhân mất đi “hồng ân cao quý nhất” là con cái.188
1665. Việc tái hôn của những người đã ly dị khi người phối ngẫu còn sống, nghịch lại ý định và lề luật của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô đã dạy. Những người này không bị tách ra khỏi Hội Thánh, nhưng không được rước lễ; họ vẫn sống đời Ki-tô hữu, nhất là giáo dục con cái trong đức tin.
1666. Gia đình Ki-tô Giáo là nơi con cái tiếp nhận lời rao giảng đầu tiên về đức tin. Vì vậy, thật là hợp lý khi gọi gia đình là “Hội Thánh tại gia”, cộng đồng ân sủng và cầu nguyện, trường dạy các nhân đức nhân bản và đức mến Ki-tô Giáo.
Chú thích
93 Bộ Giáo Luật, điều 1055,1.
94 X. St 1,26-27.
95 X. Kh 19,7.
96 X. Ep 5,31-32.
97 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 48: AAS 58 (1966) 1067.
98 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 47: AAS 58 (1966) 1067.
99 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 47: AAS 58 (1966) 1067.
100 X. St 1,27.
101 X. St 1,31.
102 X. St 2,23.
103 X. St 2,18.
104 X. Tv 121,2.
105 X. Mt 19,4.
106 X. St 3,12.
107 X. St 2,22.
108 X. St 3,16.
109 X. St 1,28.
110 X. St 3,16-19.
111 St 3,21.
112 X. St 3,16.
113 X. Mt 19,8; Đnl 24,1.
114 X. Hs 1-3; Is 54; 62; Gr 2-3; 31, Ed 16; 23.
115 X. Ml 2,13-17.
116 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.
117 X. Kh 19,7.9.
118 X. Ga 2,1-11.
119 X. Mt 19,8.
120 X. Mt 19,10.
121 X. Mt 11,29-30.
122 X. Mc 8,34.
123 X. Mt 19,11.
124 X. Ep 5,26-27.
125 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 24a, Doctrina de sacramento Matrimonii: DS 1800; Bộ Giáo Luật, điều 1055,1.
126 X. Lc 14,26; Mc 10,28-31.
127 X. Kh 14,4.
128 X. 1 Cr 7,32.
129 X. Mt 25,6.
130 X. Mc 12,25; 1 Cr 7,31.
131 X. Mt 19,3-12.
132 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 42: AAS 57 (1965) 48; Id., Sắc lệnh Perfectae caritatis, 12: AAS 58 (1966) 707; Id., Sắc lệnh Optatam totius, 10: AAS 58 (1966) 720-721.
133 Thánh Gio-an Kim Khẩu, De virginitate, 10,1: SC 125,122 (PG 48,540); x. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris consortio, 16: AAS 74 (1982) 98.
134 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 61: AAS 56 (1964) 116-117.
135 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 6: AAS 57 (1965) 9.
136 X. 1 Cr 10,17.
137 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris consortio, 67: AAS 74 (1982) 162.
138 X. Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 817.
139 X. Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 828.
140 X. Ep 5,32.
141 Bộ Giáo Luật, điều 1057,1.
142 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 48: AAS 58 (1966) 1067; Bộ Giáo Luật, điều 1057,2.
143 Nghi thức cử hành Hôn Nhân, 62, Editio typica altera (Typis Polyglottis Vaticanis 1991) 17.
144 X. St 2,24; Mc 10,8; Ep 5,31.
145 X. Bộ Giáo Luật, điều 1103.
146 X. Bộ Giáo Luật, điều 1057,1.
147 X. Bộ Giáo Luật, các điều 1083-1108.
148 X. Bộ Giáo Luật, điều 1071,1.3.
149 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 24a, Decretum “Tametsi”: DS 1813-1816; Bộ Giáo Luật, điều 1108.
150 X. Bộ Giáo Luật, điều 1063.
151 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 49: AAS 58 (1966) 1070.
152 X. Bộ Giáo Luật, điều 1124.
153 X. Bộ Giáo Luật, điều 1086.
154 X. Bộ Giáo Luật, điều 1125.
155 X. 1 Cr 7,16.
156 Bộ Giáo Luật, điều 1134.
157 X. Mc 10,9.
158 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 48: AAS 58 (1966) 1067.
159 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 48: AAS 58 (1966) 1068.
160 X. Bộ Giáo Luật, điều 1141.
161 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.
162 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 15-16; x. Ibid., 41: AAS 57 (1965) 47.
163 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 48: AAS 58 (1966) 1068.
164 X. Gl 6,2.
165 Tertullianô, Ad uxorem, 2, 8, 6-7: CCL 1,393 (PL 1,1415-1416); x. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris Consortio, 13: AAS 74 (1982) 94.
166 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris consortio, 13: AAS 74 (1982) 96.
167 X. St 2,24.
168 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris consortio, 19: AAS 74 (1982) 101.
169 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 49: AAS 58 (1966) 1070.
170 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris consortio, 19: AAS 74 (1982) 102.
171 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 48: AAS 58 (1966) 1068.
172 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris consortio, 20: AAS 74 (1982) 104.
173 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris Consortio, 83: AAS 74 (1982) 184; Bộ Giáo Luật, các điều 1151-1155.
174 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris consortio, 84: AAS 74 (1982) 185.
175 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 48: AAS 58 (1966) 1068.
176 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 50: AAS 58 (1966) 1070-1071.
177 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Gravissimum educationis, 3: AAS 58 (1966) 731.
178 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris consortio, 28: AAS 74 (1982) 114.
179 X. Cv 18,8.
180 X. Cv 16,31; 11,14.
181 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16; x. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris consortio, 21: AAS 74 (1982) 105.
182 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.
183 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 10: AAS 57 (1965) 15.
184 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 52: AAS 58 (1966) 1073.
185 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris consortio, 85: AAS 74 (1982) 187.
186 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 48: AAS 58 (1966) 1067-1068; Bộ Giáo Luật, điều 1055,1.
187 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 24a, Doctrina de sacramentoMatrimonii: DS 1799.
188 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 50: AAS 58 (1966) 1070.
CHƯƠNG IV: NHỮNG CỬ HÀNH PHỤNG VỤ KHÁC (1667-1690)
Đề mục
Mục 1: Các á bí tích (1667-1679)
Mục 2: An táng theo nghi thức Ki-tô Giáo (1680-1690)
Mục 1: Các á bí tích (1667-1679)
1667. “Mẹ Hội Thánh đã thiết lập các á bí tích. Đó là những dấu chỉ thánh thiêng, nhờ đó, phần nào phỏng theo các bí tích, những hiệu quả, đặc biệt là những hiệu quả thiêng liêng, được biểu thị và được thông ban nhờ lời khẩn cầu của Hội Thánh. Nhờ các á bí tích, con người được chuẩn bị lãnh nhận hiệu quả chính yếu của các bí tích và những hoàn cảnh khác nhau của cuộc đời được thánh hoá.”1
Những nét đặc trưng của các á bí tích (1668-1670)
1668. 699, 2157
Hội Thánh thiết lập các á bí tích để thánh hóa một số thừa tác vụ của Hội Thánh, một số bậc sống, những hoàn cảnh rất đa dạng của đời sống Ki-tô hữu, và cả việc sử dụng những sự vật hữu ích cho con người. Theo những quyết định mục vụ của các Giám mục, các á bí tích có thể đáp ứng những nhu cầu riêng biệt về văn hóa và lịch sử của dân Ki-tô Giáo trong một miền hay trong một thời đại. Các á bí tích luôn gồm một lời cầu nguyện, thường kèm theo một dấu chỉ cụ thể, như đặt tay, dấu thánh giá, rẩy nước thánh (để nhớ đến bí tích Rửa Tội).
1669. 784, 2626
Các á bí tích bắt nguồn từ chức tư tế do Phép Rửa: Mọi người đã chịu Phép Rửa đều được mời gọi để trở nên một lời chúc lành2 và để chúc lành.3 Vì vậy, người giáo dân có thể chủ sự một số việc chúc lành;4 còn việc chúc lành nào càng liên quan đến đời sống Hội Thánh và bí tích, thì càng dành riêng cho các thừa tác viên có chức thánh (Giám mục, linh mục và phó tế) chủ sự.5
1670. 1128, 2001
Các á bí tích không ban ân sủng của Chúa Thánh Thần theo kiểu các bí tích, nhưng nhờ lời cầu nguyện của Hội Thánh, chúng chuẩn bị cho việc đón nhận ân sủng và tạo điều kiện cho việc cộng tác với ân sủng. “Đối với các tín hữu đã được chuẩn bị chu đáo, hầu như mọi biến cố trong cuộc đời đều được thánh hóa bằng ân sủng của Thiên Chúa, tuôn trào từ mầu nhiệm Vượt Qua, là cuộc khổ nạn, cái chết và sự sống lại của Đức Ki-tô, chính Người ban sức mạnh cho tất cả các bí tích và á bí tích; và hầu như không có việc sử dụng chính đáng các của cải vật chất nào, lại không thể đưa tới mục đích thánh hóa con người và ca ngợi Thiên Chúa.”6
Những hình thức khác nhau của các á bí tích (1671-1673)
1671. 1078
Trong số các á bí tích, trước hết phải kể đến các phép lành (cho người, cho bàn ăn, cho các sự vật, cho các nơi chốn). Mọi phép lành đều là lời ca ngợi Thiên Chúa và lời cầu nguyện để đạt được các hồng ân của Ngài. Trong Đức Ki-tô, các Ki-tô hữu được Chúa Cha chúc lành bằng “muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (Ep 1,3). Vì vậy, Hội Thánh ban phép lành bằng việc kêu cầu danh Chúa Giê-su và thường làm dấu thánh giá của Đức Ki-tô.
1672. 923, 925, 903
Một số phép lành (benedictiones) có giá trị lâu dài: để thánh hiến cho Thiên Chúa những con người, hoặc những sự vật và nơi chốn dành riêng để sử dụng trong phụng vụ. Trong số các phép lành cho con người – không được lẫn lộn các phép lành này với bí tích Truyền Chức Thánh – có phép lành cho Viện phụ hoặc Viện mẫu các đan viện, việc thánh hiến các trinh nữ và góa phụ, nghi thức khấn hứa sống bậc tu trì, và phép lành cho một số thừa tác viên của Hội Thánh (những người đọc sách, giúp lễ, giáo lý viên, v.v…). Vài thí dụ về việc làm phép các sự vật, có thể kể việc cung hiến hoặc làm phép nhà thờ hay bàn thờ, làm phép dầu thánh, các bình và các phẩm phục thánh, làm phép chuông, v.v…
1673. 395, 550, 1237
Khi Hội Thánh, một cách công khai và với thẩm quyền, nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, cầu xin để một người hay một đồ vật được Thiên Chúa bảo vệ khỏi ảnh hưởng của Ác thần và giải thoát khỏi ách thống trị của nó, thì người ta gọi đó là Trừ tà (exorcismus). Chúa Giê-su đã thực hiện điều đó,7 và chính bởi Người, Hội Thánh có quyền và có nhiệm vụ trừ tà.8 Với hình thức đơn giản, việc trừ tà đã có trong nghi thức cử hành bí tích Rửa Tội. Còn việc trừ tà long trọng, gọi là “trừ tà đại thể”, chỉ được thực hiện bởi một linh mục, với sự cho phép của Giám mục. Trong việc này, phải tiến hành cách khôn ngoan, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Hội Thánh.9 Việc trừ tà nhằm trục xuất ma quỷ hoặc giải thoát khỏi ảnh hưởng của nó, nhờ quyền bính thiêng liêng Chúa Giê-su đã ủy thác cho Hội Thánh của Người. Trường hợp bệnh tật, nhất là các bệnh tâm thần, thì khác hẳn, việc chữa trị các bệnh này là công việc của y khoa. Vì vậy, điều hết sức quan trọng là, trước khi cử hành nghi thức trừ tà, phải rất chắc chắn rằng đây là trường hợp quỷ ám chứ không phải là một bệnh tật nào đó.
Lòng đạo đức bình dân (1674-1676)
1674. 2688, 2669, 2678
Ngoài phụng vụ bí tích và các á bí tích, việc dạy giáo lý còn phải kể đến những hình thức đạo đức của các tín hữu và những hình thức của lòng đạo đức bình dân. Cảm thức tôn giáo của dân Ki-tô Giáo luôn luôn được diễn đạt bằng những hình thức đa dạng của lòng đạo đức, kèm theo đời sống bí tích của Hội Thánh, như việc tôn kính các di tích thánh, kính viếng các đền thánh, những cuộc hành hương, những cuộc rước kiệu, chặng đàng thánh giá, các vũ điệu tôn giáo, kinh Mân Côi, đeo ảnh thánh, v.v…10
1675. Những hình thức đạo đức này tiếp nối chứ không thay thế đời sống phụng vụ của Hội Thánh: “Quả vậy, phải sắp xếp việc thực hành những hình thức đạo đức đó theo các mùa phụng vụ, sao cho chúng hòa nhịp với phụng vụ thánh, một cách nào đó phát xuất từ phụng vụ, dẫn đưa dân tới phụng vụ, vì tự bản chất của nó, phụng vụ ưu việt hơn hẳn những hình thức đạo đức đó.”11
1676. 426
Các mục tử cần phải phân định để nâng đỡ và ủng hộ lòng đạo đức bình dân, và nếu cần, để thanh luyện và điều chỉnh cảm thức tôn giáo tiềm ẩn dưới những việc sùng kính này, để liệu sao cho người ta tiến triển trong việc nhận biết mầu nhiệm của Đức Ki-tô. Việc thực hành những hình thức đạo đức này là theo sự chăm sóc và xét đoán của các Giám mục, và theo những quy định chung của Hội Thánh.12
“Lòng đạo đức bình dân, trong cốt lõi của nó, là một tập hợp những giá trị mà, với sự khôn ngoan Ki-tô Giáo, đáp trả lại những vấn nạn lớn của cuộc sống. Sự khôn ngoan Công giáo bình dân có khả năng tổng hợp sống động; như vậy, một cách đầy sáng tạo, họ có thể nói đến cùng một trật những gì thuộc về Thiên Chúa và những gì thuộc về phàm nhân; Đức Ki-tô và Mẹ Ma-ri-a, tinh thần và thể xác; hiệp thông và định chế; cá nhân và cộng đoàn; đức tin và quê hương, lý trí và tình cảm. Sự khôn ngoan này là một thuyết nhân bản Ki-tô Giáo, khẳng định cách triệt để phẩm giá của mọi nhân vị với tư cách là con Thiên Chúa, xây dựng tình huynh đệ căn bản, dạy chúng ta gặp gỡ thiên nhiên và hiểu biết lao động, đem lại cho ta những lý do để sống vui tươi và thoải mái, cả trong cuộc sống hết sức cam go. Đối với dân, sự khôn ngoan này còn là một nguyên lý để phân định, một bản năng theo Tin Mừng, nhờ đó họ nhận biết tức khắc, khi nào sự phục vụ trong Hội Thánh là dành cho Tin Mừng, và khi nào sự phục vụ đó trở nên trống rỗng và bị bóp nghẹt vì những lợi lộc khác.”13
Bài này đã được xem 5717 lần!