GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

Tóm lược (1677-1679)

1677. Á bí tích là những dấu chỉ thánh thiêng do Hội Thánh thiết lập để chuẩn bị cho con người đón nhận hiệu quả của các bí tích và để thánh hóa một số hoàn cảnh trong cuộc sống.

1678. Trong các á bí tích, các phép lành có một vị trí đặc biệt. Chúng vừa là lời ca ngợi Thiên Chúa vì những kỳ công và hồng ân của Ngài, vừa là lời Hội Thánh chuyển cầu để con người có thể sử dụng những hồng ân của Thiên Chúa theo tinh thần Tin Mừng.

1679. Ngoài phụng vụ, đời sống Ki-tô hữu còn được nuôi dưỡng bằng những việc đạo đức đa dạng, bắt nguồn từ những nền văn hóa khác nhau. Khi dùng ánh sáng đức tin soi sáng những việc đạo đức này, Hội Thánh cổ vũ những việc đạo đức bình dân thể hiện những nét thích hợp với Tin Mừng và sự khôn ngoan nhân bản, góp phần làm phong phú đời sống Ki-tô hữu.


Chú thích

1 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 60: AAS 56 (1964) 116; Bộ Giáo Luật, điều 1166; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 867.

2 X. St 12,2.

3 X. Lc 6,28; Rm 12,14; 1 Pr 3,9.

4 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 79: AAS 56 (1964) 120; x. Bộ Giáo Luật, điều 1168.

5 X. De Benedictionibus, Praenotanda generalia, 16 et 18, Editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1984) 13.14-15.

6 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 61: AAS 56 (1964) 116-117.

7 X. Mc 1,25-26.

8 X. Mc 3,15; 6,7.13; 16,17.

9 X. Bộ Giáo Luật, điều 1172.

10 X. CĐ Ni-xê-a II, Definitio de sacris imaginibus: DS 601; Ibid.: DS 603; CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 25a, Decretum de invocatione, veneratione et reliquiis sanctorum, et sacris imaginibus: DS 1822.

11 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 13: AAS 56 (1964) 103.

12 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Catechesi tradendae, 54 : AAS 71 (1979) 1321-1322.

13 III Conferencia General del Episcopado Latinoamericano, Puebla. La Evangelización en el presente y en el futuro de América Latina, 448 (Bogota 1979) 131; x. ĐGH Phao-lô VI, Tông huấn Evangelii nuntiandi, 48: AAS 68 (1976) 37-38.

 

Mục 2: An táng theo nghi thức Ki-tô Giáo (1680-1690)

1680. 1525

Tất cả các bí tích, nhất là các bí tích khai tâm Ki-tô Giáo, đều hướng tới mục tiêu là cuộc Vượt Qua cuối cùng của con cái Thiên Chúa; cuộc Vượt Qua này, nhờ cái chết, dẫn đưa họ vào cuộc sống trong Nước Trời. Lúc đó sẽ hoàn tất điều họ tuyên xưng trong đức tin và niềm hy vọng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau.”14

I. Cuộc Vượt Qua cuối cùng của Ki-tô hữu (1681-1683)

1681. 1010-1014

Ý nghĩa cái chết trong Ki-tô Giáo được mặc khải dưới ánh sáng của mầu nhiệm Vượt Qua là sự Chết và sự Sống lại của Đức Ki-tô, niềm hy vọng duy nhất của chúng ta. Ki-tô hữu chết trong Đức Ki-tô Giê-su, là lìa bỏ thân xác này để được ở bên Chúa.15

1682. Đối với Ki-tô hữu, ngày chết, lúc kết thúc đời sống bí tích của họ, là lúc bắt đầu hoàn tất cuộc tái sinh vốn đã khởi sự trong bí tích Rửa Tội, là lúc bắt đầu vĩnh viễn nên “giống hình ảnh Chúa Con” vốn đã được ban cho họ nhờ việc xức dầu bằng Chúa Thánh Thần, và là lúc bắt đầu được tham dự bàn tiệc Nước Trời, vốn đã được tham dự trước trong bí tích Thánh Thể, mặc dù họ còn cần đến những thanh luyện cuối cùng để được mặc áo cưới.

1683. 1020, 627

Hội Thánh, như một người Mẹ, đã mang Ki-tô hữu trong lòng mình một cách bí tích trong suốt cuộc lữ thứ trần gian của họ, nay đồng hành với họ đến cuối đường để trao họ “vào tay Chúa Cha.” Trong Đức Ki-tô, Hội Thánh dâng lên Chúa Cha đứa con của ân sủng của Ngài, và trong niềm hy vọng, gửi vào lòng đất hạt giống thân xác sẽ sống lại trong vinh quang.16 Sự hiến dâng này được cử hành đầy đủ trong Hy lễ Thánh Thể; những lời chúc lành trước hoặc sau Thánh lễ là những á bí tích.

II. Cử hành nghi thức an táng (1684-1690)

1684. Lễ nghi an táng theo Ki-tô Giáo là một cử hành phụng vụ của Hội Thánh. Qua đó, thừa tác vụ Hội Thánh vừa muốn diễn tả sự hiệp thông hữu hiệu với người đã qua đời, vừa giúp cộng đoàn có mặt trong lễ an táng tham dự sự hiệp thông này và loan báo cho họ về đời sống vĩnh cửu.

1685. Các nghi thức khác nhau của lễ an táng diễn tả đặc tính Vượt Qua của cái chết theo Ki-tô Giáo và đáp ứng những hoàn cảnh và truyền thống của từng miền, cả trong vấn đề màu sắc phụng vụ.17

1686. Sách Nghi Thức An Táng (Ordo exsequiarum) của phụng vụ Rô-ma trình bày ba mẫu cử hành, tương ứng với ba nơi diễn ra các nghi thức (tại nhà tang, tại nhà thờ và tại nghĩa trang), và theo tầm quan trọng mà gia đình, các phong tục địa phương, văn hóa và lòng đạo đức bình dân, dành cho các nơi đó. Tuy nhiên, thứ tự việc cử hành là chung cho mọi truyền thống phụng vụ, và gồm bốn giai đoạn chính:

1687. Đón tiếp cộng đoàn. Một lời chào trong đức tin mở đầu cuộc cử hành. Các thân nhân người quá cố được đón nhận bằng một lời “an ủi” (theo nghĩa của Tân Ước: Sức mạnh của Chúa Thánh Thần trong niềm hy vọng18). Cộng đoàn cầu nguyện được quy tụ, cũng đang mong đợi “những lời đem lại sự sống đời đời.” Cái chết của một thành viên trong cộng đoàn (hay ngày giáp năm, giỗ bảy ngày, giỗ ba mươi ngày) phải là một dịp khiến người ta vượt quá những viễn cảnh của “thế gian này” và các tín hữu được lôi cuốn đến những viễn cảnh chân thật của đức tin vào Đức Ki-tô Phục Sinh.

1688. Phụng vụ Lời Chúa trong nghi thức an táng cần được chuẩn bị chu đáo, vì cộng đoàn hiện diện có thể gồm những tín hữu ít khi tham dự phụng vụ, và những thân hữu của người quá cố không phải là Ki-tô hữu. Đặc biệt, bài giảng không được theo hình thức điếu văn19 và phải làm sáng tỏ mầu nhiệm cái chết theo Ki-tô Giáo bằng ánh sáng của Đức Ki-tô phục sinh.

1689. 1371, 958

Hy lễ Thánh Thể. Khi nghi thức an táng cử hành trong nhà thờ, bí tích Thánh Thể là tâm điểm của thực tại Vượt Qua của cái chết theo Ki-tô Giáo.20 Lúc đó, Hội Thánh bày tỏ sự hiệp thông hữu hiệu của mình với người quá cố: khi dâng lên Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần, hy lễ là cái Chết và sự Sống lại của Đức Ki-tô, Hội Thánh khẩn cầu cho người con của mình được thanh luyện khỏi mọi tội lỗi và các hậu quả của tội, và được đón nhận vào sự viên mãn của cuộc Vượt Qua nơi bàn tiệc Nước Trời.21 Nhờ bí tích Thánh Thể được cử hành như vậy, cộng đoàn tín hữu, đặc biệt là gia đình người quá cố, học sống hiệp thông với người “đã an nghỉ trong Chúa”, bằng việc hiệp thông với thân thể của Đức Ki-tô mà người quá cố là một chi thể sống động, rồi bằng việc cầu nguyện cho người ấy và với người ấy.

1690. 2300

Nghi thức từ biệt người quá cố lần cuối cùng (trong một số ngôn ngữ gốc la tinh, “adieu”, “addio”, “adiĩs” = ad Deum, nghĩa là “đến với Thiên Chúa”) là lời Hội Thánh “phó dâng người này cho Chúa.” “Cộng đoàn Ki-tô hữu chào từ biệt lần cuối cùng một chi thể của mình, trước khi xác người đó được mai táng.”22 Truyền thống Byzantin diễn tả ý nghĩa này bằng cái hôn từ biệt người quá cố:

“Với lời chào cuối cùng này, chúng ta hát tiễn người ra đi khỏi cuộc đời này và lìa xa chúng ta, nhưng đây cũng là cuộc hiệp thông và đoàn tụ, vì dầu phải chết, chúng ta cũng không bao giờ phải chia lìa nhau; quả thật, tất cả chúng ta đang đi cùng một đường và sẽ gặp lại nhau ở cùng một nơi. Chúng ta sẽ không bao giờ bị chia lìa, vì chúng ta đang sống cho Đức Ki-tô và giờ đây chúng ta đang được kết hợp với Người, đang đi đến với Người… Tất cả các tín hữu chúng ta sẽ được cùng nhau ở với Đức Ki-tô.”23


Chú thích

14 Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli: DS 150.

15 X. 2 Cr 5,8.

16 X. 1 Cr 15,42-44.

17 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 81: AAS 56 (1964) 120.

18 X. 1 Tx 4,18.

19 X. Nghi thức an táng, De primo typo exsequiarum, 41, Editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1969) 21.

20 X. Nghi thức an táng, Praenotanda, 1, Editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1969) 7.

21 X. Nghi thức an táng, De primo typo exsequiarum, 56, Editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1969) 26.

22 X. Nghi thức an táng, Praenotanda, 10, Editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1969) 9.

23 Thánh Simêon Thessalônica, De ordine sepulturae, 367: PG 155,685.

PHẦN THỨ BA: ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ (1691-2557)

(có hình)

Phần chính của thạch mộ Junius Bassus được tìm thấy phía dưới tòa giải tội của đền thờ thánh Phê-rô tại Rô-ma, đề năm 359

Đức Ki-tô vinh hiển, được trình bày rất trẻ (dấu chỉ thiên tính của Người), ngồi trên ngai trời, đạp trên thần trời Uranus của dân ngoại. Vây quanh Người là hai tông đồ Phê-rô và Phao-lô. Cả hai hướng về Đức Ki-tô và nhận lãnh hai cuốn Luật mới.

Như xưa ông Mô-sê đã nhận lãnh Luật cũ nơi Thiên Chúa trên núi Xi-nai, nay các tông đồ, được đại diện bởi hai vị đứng đầu, nhận nơi Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Chúa trời đất, Luật Mới, không còn được viết trên những bia đá nữa nhưng được Thánh Thần khắc ghi trong tâm hồn các tín hữu. Đức Ki-tô ban cho ta sức mạnh để sống “đời sống mới” (§1697). Người đến để kiện toàn trong ta điều Người đã dạy vì thiện ích của ta (x. §2074).


1691. 790

“Hỡi Ki-tô hữu, hãy ý thức phẩm giá của bạn, và đã được thông phần bản tính thần linh, bạn đừng quay trở lại với sự thấp hèn trước kia. Bạn hãy nhớ bạn thuộc về Đầu nào và là chi thể của ai. Bạn hãy nhớ rằng bạn đã được giải thoát khỏi quyền lực tối tăm và được đưa vào ánh sáng và Nước của Thiên Chúa.”1

1692. Tín biểu tuyên xưng sự cao cả của các hồng ân Thiên Chúa đã rộng ban cho loài người trong công trình tạo dựng của Ngài và hơn nữa nhờ ơn cứu chuộc và thánh hóa. Điều đức tin tuyên xưng, được các bí tích truyền thông: nhờ các bí tích tái sinh, các Ki-tô hữu trở nên “con Thiên Chúa” (1 Ga 3,1),2 “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). Khi nhận biết phẩm giá mới của mình nhờ đức tin, các Ki-tô hữu được kêu gọi để từ nay ăn ở cho xứng với Tin Mừng của Đức Ki-tô.3 Nhờ các bí tích và kinh nguyện, họ nhận được ân sủng của Đức Ki-tô và các hồng ân của Thần Khí của Người, làm cho họ có khả năng thực hiện điều đó.

1693. Đức Ki-tô Giê-su luôn làm điều đẹp lòng Chúa Cha.4 Người luôn sống trong sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa Cha. Cũng một cách đó, các môn đệ của Người được mời gọi sống trước tôn nhan Chúa Cha, “Đấng thấu suốt những gì kín đáo” (Mt 6,6), để trở nên “hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).

1694. 1267

Được tháp nhập vào Đức Ki-tô5 nhờ Phép Rửa, các Ki-tô hữu đã chết cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa trong Đức Ki-tô Giê-su,6 và như vậy, họ được tham dự vào sự sống của Đấng Phục Sinh.7 Khi bước theo Đức Ki-tô và kết hợp với Người,8 các Ki-tô hữu có thể cố gắng bắt chước Thiên Chúa, như những người con rất yêu dấu và bước đi trong tình yêu,9 bằng việc uốn nắn các ý nghĩ, lời nói và hành động của mình, sao cho họ có nơi mình tâm tư như đã có trong Đức Ki-tô Giê-su10 và sống theo gương Người.11

1695. Các Ki-tô hữu, “được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta” (1 Cr 6,11), được thánh hóa và được gọi là thánh,12 họ trở thành “đền thờ của Chúa Thánh Thần” (1 Cr 6,19). Chính “Thần Khí của Chúa Con” dạy họ cầu nguyện với Chúa Cha,13 và khi đã trở nên sự sống của họ, Ngài thúc đẩy họ hành động,14 để mang lại hoa trái của Thần Khí,15 nhờ thực hiện đức mến. Khi chữa lành các vết thương của tội lỗi, Chúa Thánh Thần canh tân nội tâm chúng ta bằng sự biến đổi thiêng liêng,16 Ngài soi sáng chúng ta và củng cố để với tư cách là “con cái ánh sáng” (Ep 5,8), chúng ta sống “lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5,9).

1696. 1970

Con đường của Đức Ki-tô “đưa đến sự sống” (Mt 7,14), còn con đường đối nghịch “đưa đến diệt vong” (Mt 7,13).17 Dụ ngôn Tin Mừng về hai con đường luôn hiện diện trong việc dạy giáo lý của Hội Thánh. Nó cho thấy tầm quan trọng của các quyết định luân lý đối với ơn cứu độ của chúng ta. “Có hai con đường, một dẫn đến sự sống, một dẫn đến sự chết: hai bên khác nhau một trời một vực.”18

1697. 737tt., 1938tt., 1716tt., 1846tt., 1803tt., 1812tt., 2067tt., 946tt.

Trong việc dạy giáo lý, phải trình bày hết sức rõ ràng niềm vui và những đòi hỏi của con đường của Đức Ki-tô.19 Việc dạy giáo lý về “đời sống mới” (Rm 6,4) trong Người sẽ là:

– Dạy giáo lý về Chúa Thánh Thần, vị Thầy nội tâm của đời sống theo Đức Ki-tô, người khách trọ dịu hiền và người bạn linh hứng, hướng dẫn, sửa chữa và củng cố đời sống này;

– Dạy giáo lý về ân sủng, bởi vì nhờ ân sủng mà chúng ta được cứu độ, và cũng nhờ ân sủng mà các công việc của chúng ta có thể mang lại hoa trái cho sự sống muôn đời;

– Dạy giáo lý về các mối phúc, bởi vì con đường của Đức Ki-tô được tóm kết trong các mối phúc, là con đường duy nhất dẫn đến vinh phúc muôn đời mà trái tim con người hằng khao khát;

– Dạy giáo lý về tội lỗi và ơn tha thứ, bởi vì con người, nếu không nhận biết mình là tội nhân, thì không thể nhận ra chân lý về bản thân mình, chân lý này là điều kiện để hành động đúng đắn, và, nếu ơn tha thứ không được ban cho họ, họ không thể chịu đựng nổi chân lý này;

– Dạy giáo lý về các nhân đức nhân bản, giúp chúng ta nhận ra vẻ đẹp và sự lôi cuốn của những thái độ chân chính hướng về điều thiện;

– Dạy giáo lý về các nhân đức Ki-tô Giáo: tin, cậy, mến, được gợi hứng rất nhiều từ mẫu gương của các Thánh;

– Dạy giáo lý về giới răn mến Chúa yêu người được triển khai trong Mười Điều Răn;

– Dạy giáo lý về Hội Thánh, bởi vì đời sống Ki-tô hữu chỉ có thể tăng trưởng, được quảng bá và được lưu truyền nhờ sự trao đổi đa dạng “các lợi ích thiêng liêng” trong mầu nhiệm “các Thánh thông công.”

1698. 426

Điểm quy chiếu đầu tiên và tối thượng của việc dạy giáo lý như vậy sẽ luôn luôn là chính Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng là “con đường, là sự thật, và là sự sống” (Ga 14,6). Khi nhìn ngắm Người bằng đức tin, các Ki-tô hữu có thể hy vọng chính Người sẽ thực hiện nơi họ những điều Người đã hứa, và khi yêu mến Người bằng tình yêu mà Người đã yêu mến họ, họ có thể thực hiện được những việc phù hợp với phẩm giá của mình:

“Tôi xin bạn hãy coi Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, là Đầu thật của bạn và bạn là một trong các chi thể của Người… Người đối với bạn cũng như đầu đối với các chi thể; mọi sự của Người, là của bạn: tinh thần, trái tim, thân thể, linh hồn và mọi khả năng của Người,… bạn phải sử dụng tất cả như của riêng bạn để phục vụ, ca ngợi, yêu mến và tôn vinh Thiên Chúa. Nhưng bạn thuộc về Người, như chi thể thuộc về đầu, vì vậy, Người hết sức khao khát sử dụng tất cả các tài năng của bạn, như là của Người, để phục vụ và tôn vinh Cha Người.”20

“Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô” (Pl 1,21).


Đề mục

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)


Chú thích

1 Thánh Lê-ô Cả, Sermo 21, 3: CCL 138,88 (PL 54,192-193).

2 X. Ga 1,12.

3 X. Pl 1,27.

4 X. Ga 8,29.

5 X. Rm 6,5.

6 X. Rm 6,11.

7 X. Cl 2,12.

8 X. Ga 15,5.

9 X. Ep 5,1-2.

10 X. Pl 2,5.

11 X. Ga 13,12-16.

12 X. 1 Cr 1,2.

13 X. Gl 4,6.

14 X. Gl 5,25.

15 X. Gl 5,22.

16 X. Ep 4,23.,

17 X. Đnl 30,15-20.

18 Đi-đa-kê, 1,1: SC 248,140 (Funk 1,2).

19 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Catechesi tradendae, 29: AAS 71 (1979) 1301.

20 Thánh Gio-an Eudes, Le Coeur admirable de la Très Sacrée Mère de Dieu, 1, 5: Oeuvres completes, v. 6 (Paris 1908) 113-114.

 

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

1699. Đời sống trong Thần Khí hoàn thành ơn gọi của con người (Chương Một). Đời sống này cốt tại đức mến thần linh và sự liên đới nhân loại (Chương Hai). Đời sống này được trao ban cách nhưng không như ơn cứu độ (Chương Ba).


Đề mục

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

1700. 356, 1439

Phẩm giá của nhân vị bắt nguồn từ việc con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa (Mục 1); phẩm giá này được hoàn thành trong ơn gọi đến hưởng vinh phúc thần linh (Mục 2). Trách nhiệm của con người là tự nguyện hướng tới sự hoàn thành đó (Mục 3). Bằng những hành vi có ý thức của mình (Mục 4), nhân vị sống phù hợp hay không phù hợp với điều thiện hảo mà Thiên Chúa đã hứa và lương tâm chứng nhận (Mục 5). Người ta tự xây dựng bản thân mình và tăng trưởng nội tâm: họ sử dụng toàn bộ đời sống cảm giác và tinh thần của họ làm chất liệu cho sự tăng trưởng của mình (Mục 6). Nhờ ân sủng trợ giúp, họ tăng trưởng về nhân đức (Mục 7), xa lánh tội lỗi, và nếu đã phạm tội, họ sẽ như đứa con hoang đàng,1 phó thác cho lòng thương xót của Cha chúng ta trên trời (Mục 8). Như vậy, con người đạt tới sự trọn hảo của đức mến.

Bài này đã được xem 5690 lần!

Pages ( 60 of 96 ): <1 ... 5859 60 6162 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]