Đề mục
Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)
Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)
Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)
Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)
Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)
Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)
Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)
Chú thích
1 X. Lc 15,11-31.
Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)
1701. 359
“Đức Ki-tô,… chính khi mặc khải về mầu nhiệm của Chúa Cha và về tình yêu của Ngài, đã biểu lộ cho con người cách rất đầy đủ về chính họ và cho họ thấy ơn gọi rất cao cả của họ.”2 Trong Đức Ki-tô, “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình” (Cl 1,15),3 con người được tạo dựng “theo hình ảnh và giống như” Đấng Tạo Hóa. Trong Đức Ki-tô, Đấng Cứu chuộc và Cứu độ, hình ảnh thần linh, đã bị biến dạng nơi con người vì nguyên tội, nay được phục hồi trong vẻ đẹp nguyên thủy của nó và còn được nên cao trọng nhờ ân sủng của Thiên Chúa.4
1702. 1878
Hình ảnh thần linh hiện diện trong từng con người. Hình ảnh đó rực sáng trong sự hiệp thông của các nhân vị, giống như sự duy nhất giữa các Ngôi Vị thần linh với nhau (x. Chương Hai).
1703. 363, 2258
Được phú ban một linh hồn thiêng liêng và bất tử,5 nhân vị là “thụ tạo duy nhất nơi trần thế mà Thiên Chúa đã muốn vì chính nó.”6 Ngay từ lúc tượng thai của mình, nhân vị được định hướng tới vinh phúc vĩnh cửu.
1704. 339, 30
Nhân vị được tham dự vào ánh sáng và sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa. Nhờ lý trí, nó có khả năng để hiểu biết trật tự muôn loài do Đấng Tạo hóa thiết lập. Nhờ ý chí, nó có khả năng để hướng mình tới điều thiện hảo thật của mình. Nó theo đuổi sự trọn hảo của mình bằng cách tìm kiếm và yêu mến những điều thiện hảo đích thực.7
1705. 1730
Vì có linh hồn và các tài năng tinh thần là lý trí và ý chí, con người được phú ban sự tự do, là “dấu chỉ tuyệt hảo của hình ảnh thần linh.”8
1706. 1776
Nhờ lý trí, con người nhận ra tiếng Thiên Chúa thúc đẩy mình “làm điều tốt và tránh điều xấu.”9 Mỗi người phải vâng theo lề luật này, một lề luật đang vang vọng trong lương tâm, một lề luật được chu toàn trong sự mến Chúa yêu người. Việc thực thi đời sống luân lý chứng tỏ phẩm giá của nhân vị.
1707. 397
“Tuy nhiên, ngay từ lúc khởi đầu lịch sử, con người bị thần Dữ cám dỗ, nên đã lạm dụng tự do của mình.”10 Họ sa chước cám dỗ và làm điều xấu. Con người vẫn còn khát khao điều tốt, nhưng bản tính con người đã mang vết thương của nguyên tội. Con người trở thành bị nghiêng chiều về điều xấu và dễ bị sai lầm:
“Con người đã bị chia rẽ trong chính bản thân mình. Vì vậy, toàn bộ đời sống con người, cả cá nhân cả tập thể, đều biểu hiện như một cuộc chiến bi thảm, giữa điều tốt và điều xấu, giữa ánh sáng và tối tăm.”11
1708. 617
Bằng cuộc khổ nạn của Người, Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta khỏi Xa-tan và tội lỗi. Người lập công cho chúng ta có sự sống mới trong Chúa Thánh Thần. Ân sủng của Người phục hồi những gì tội lỗi đã làm hư hỏng nơi chúng ta.
1709. 1265, 1050
Ai tin vào Đức Ki-tô thì trở nên con cái Thiên Chúa. Ơn được làm nghĩa tử này biến đổi người ấy, giúp họ sống theo mẫu gương Đức Ki-tô. Ơn này ban cho họ khả năng hành động đúng đắn và thực thi điều tốt. Được kết hợp với Đấng Cứu độ của mình, người môn đệ đạt tới sự trọn hảo của đức mến, là sự thánh thiện. Được hoàn thiện trong ân sủng, đời sống luân lý sẽ được triển nở thành sự sống vĩnh cửu trong vinh quang trên trời.
Tóm lược (1710-1715)
1710. “Đức Ki-tô… đã biểu lộ cho con người cách rất đầy đủ về chính họ và cho họ thấy ơn gọi rất cao cả của họ.”12
1711. Được phú ban một linh hồn thiêng liêng, lý trí và ý chí, ngay từ lúc tượng thai, nhân vị đã được quy hướng về Thiên Chúa và được tiền định hướng tới vinh phúc muôn đời. Nó theo đuổi sự trọn hảo của mình bằng cách tìm kiếm và yêu mến những điều thiện hảo đích thực.13
1712. “Sự tự do đích thực là dấu chỉ tuyệt hảo của hình ảnh thần linh nơi con người.”14
1713. Con người phải vâng theo luật luân lý thúc đẩy họ “làm điều tốt và tránh điều xấu.”15 Luật này vang vọng trong lương tâm của họ.
1714. Con người, vì nguyên tội, đã bị tổn thương trong bản tính của mình, nên dễ bị sai lầm và nghiêng chiều về sự dữ khi sử dụng tự do của mình.
1715. Ai tin vào Đức Ki-tô thì có sự sống mới trong Chúa Thánh Thần. Đời sống luân lý, được tăng trưởng và hoàn thiện trong ân sủng, sẽ được hoàn tất trong vinh quang trên trời.
Chú thích
2 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.
3 X. 2 Cr 4,4.
4 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.
5 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 14: AAS 58 (1966) 1036.
6 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 24: AAS 58 (1966) 1045.
7 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 15: AAS 58 (1966) 1036.
8 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 17: AAS 58 (1966) 1037.
9 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 16: AAS 58 (1966) 1037.
10 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 13: AAS 58 (1966) 1034.
11 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 13: AAS 58 (1966) 1035.
12 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.
13 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 15: AAS 58 (1966) 1036.
14 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 17: AAS 58 (1966) 1037.
15 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 16: AAS 58 (1966) 1037.
Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)
I. Các mối phúc (1716-1717)
1716. 2546
Các mối phúc là trung tâm lời rao giảng của Chúa Giê-su. Việc công bố các mối phúc là lặp lại các lời hứa đã được ban cho dân Chúa chọn khởi từ tổ phụ Áp-ra-ham. Các mối phúc kiện toàn các lời hứa này, bằng cách không còn chỉ hướng đến việc thừa hưởng một mảnh đất nữa, nhưng là hướng đến Nước Trời:
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.
Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,3-12).
1717. 459, 1820
Các mối phúc phác họa dung mạo của Chúa Giê-su Ki-tô và mô tả tình yêu của Người; chúng diễn tả ơn gọi của các tín hữu, những người được đồng phận trong vinh quang của cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Người; chúng minh họa những hành động và thái độ đặc trưng của đời sống Ki-tô Giáo; chúng là những lời hứa nghịch lý, nâng đỡ niềm hy vọng trong những lúc gian truân; chúng loan báo cho các môn đệ những phúc lành và ân thưởng đã được quyết định tuy còn ẩn khuất; chúng đã được khởi đầu trong đời sống của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và của tất cả các Thánh.
II. Ước muốn hạnh phúc (1718-1719)
1718. 27, 1024, 2541
Các mối phúc đáp ứng khao khát tự nhiên là được hạnh phúc. Khao khát này có nguồn gốc thần linh; Thiên Chúa đã đặt niềm khao khát đó trong trái tim con người để lôi kéo họ đến với Ngài, Đấng duy nhất có thể làm thỏa mãn sự khao khát này:
“Chắc chắn mọi người chúng ta đều muốn sống hạnh phúc; và trong dòng giống loài người, không ai không đồng ý với điều này, cả trước khi nó được phát biểu cách rõ ràng.”16
“Lạy Chúa, con phải tìm Chúa thế nào? Quả thật, khi con tìm Chúa là Thiên Chúa của con, là con tìm đời sống hạnh phúc. Con muốn tìm Chúa, để linh hồn con được sống. Vì thân xác con sống nhờ linh hồn con và linh hồn con sống nhờ Chúa.”17
“Chỉ có Thiên Chúa mới làm no thỏa.”18
1719. 1950
Các mối phúc cho thấy mục tiêu của sự hiện hữu nhân linh, mục đích tối hậu của các hành vi nhân linh: Thiên Chúa kêu gọi chúng ta đến hưởng vinh phúc riêng của Ngài. Ơn gọi này được gửi cho từng người một cách cá vị, nhưng cũng cho toàn thể Hội Thánh, là dân mới của những người đón nhận lời hứa và sống trong lòng tin vào lời hứa đó.
III. Vinh phúc Ki-tô Giáo (1720-1724)
1720. 1027
Tân Ước dùng nhiều kiểu nói để diễn tả vinh phúc mà Thiên Chúa kêu gọi con người đến hưởng:
– sự ngự đến của Nước Thiên Chúa;19
– sự nhìn thấy Thiên Chúa: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8);20
– vào hưởng niềm vui của Chúa;21
– vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa:22
“Ở đó chúng ta sẽ yên nghỉ và chiêm ngắm, chúng ta sẽ chiêm ngắm và yêu mến, chúng ta sẽ yêu mến và ca ngợi. Đó sẽ là cùng đích vô tận. Vậy chúng ta còn có cùng đích nào khác, nếu không phải là đạt tới Nước vô cùng vô tận?”23
1721. 260
Thiên Chúa đã đặt chúng ta ở trần gian để chúng ta nhận biết Ngài, phục vụ Ngài và yêu mến Ngài để như vậy chúng ta đạt tới thiên đàng. Vinh phúc làm cho chúng ta “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4) và sự sống muôn đời.24 Với vinh phúc này, con người bước vào vinh quang của Đức Ki-tô25 và vào vui hưởng sự sống của Chúa Ba Ngôi.
1722. 1028, 294
Vinh phúc như vậy vượt quá sự hiểu biết và sức lực riêng của con người. Vinh phúc đó được ban do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa. Vì vậy, nó được gọi là siêu nhiên, cũng như ân sủng chuẩn bị con người vào vui hưởng Thiên Chúa.
“‘Phúc thay những người có trái tim trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa’. Nhưng vì sự cao cả và vinh quang khôn tả của Ngài, nên ‘không ai trông thấy Ngài mà còn sống được’, tuy nhiên, Chúa Cha, Đấng không thể đạt thấu, do tình yêu và lòng nhân hậu của Ngài, và bởi vì Ngài có thể làm được mọi sự, cũng đã ban cho những ai yêu mến Ngài điều này, là được nhìn thấy Ngài: vì ‘những gì đối với loài người là không thể được, thì đối với Thiên Chúa lại là có thể’.”26
1723. 2519, 227
Vinh phúc được hứa ban đặt chúng ta trước những lựa chọn luân lý có tính quyết định. Vinh phúc đó mời gọi chúng ta thanh luyện trái tim khỏi những bản năng xấu và tìm kiếm tình yêu của Thiên Chúa trên hết mọi sự. Nó dạy chúng ta biết rằng hạnh phúc thật không cốt tại của cải trần thế hoặc tiện nghi, cũng không phải trong vinh quang nhân loại hay quyền lực, cũng không phải trong công trình nhân loại nào, cho dù là hữu ích, như khoa học, kỹ thuật và nghệ thuật, cũng không ở trong bất cứ tạo vật nào, nhưng duy chỉ ở nơi Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi điều thiện hảo và mọi tình yêu:
“Ngày nay, giàu sang là vị thần vĩ đại; nhiều người, hàng lớp người tự nguyện sùng bái vị thần này. Họ đo lường hạnh phúc bằng tài sản; họ đo lường cả sự đáng kính cũng bằng tài sản… Điều đó phát sinh do sự xác tín của chúng ta… theo đó thì có tiền thì mọi sự đều có thể. Vì vậy, giàu sang là một trong những ngẫu tượng của thời đại ngày nay, và danh tiếng là một ngẫu tượng khác… Danh tiếng, được người ta biết đến, có tiếng tăm ở trần gian, đưa đến chỗ chính danh tiếng được coi là điều thiện hảo, là điều thiện hảo cao cả, là đối tượng cho người ta kính trọng… Đó có thể được gọi là sự nổi tiếng trên báo chí.”27
1724. Mười Điều Răn, Bài giảng trên núi và giáo lý của các Tông Đồ mô tả cho chúng ta những con đường dẫn đến Nước Trời. Chúng ta tiến từng bước trên những con đường này qua những hành vi hằng ngày, được nâng đỡ bởi ân sủng của Chúa Thánh Thần. Được sinh sôi nảy nở bằng lời Đức Ki-tô, chúng ta từ từ mang lại hoa trái trong Hội Thánh để tôn vinh Thiên Chúa.28
Tóm lược (1725-1729)
1725. Các mối phúc lặp lại và kiện toàn các lời hứa của Thiên Chúa khởi từ tổ phụ Áp-ra-ham bằng việc quy hướng các lời hứa đó đến Nước Trời. Chúng đáp ứng niềm khao khát hạnh phúc mà Thiên Chúa đã đặt trong trái tim con người.
1726. Các mối phúc dạy chúng ta biết cùng đích tối hậu mà Thiên Chúa kêu gọi chúng ta đạt tới: Nước Thiên Chúa, nhìn thấy Thiên Chúa, thông phần bản tính thần linh, sự sống muôn đời, làm con Thiên Chúa và yên nghỉ trong Thiên Chúa.
1727. Vinh phúc được sống muôn đời là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa; vinh phúc này, cũng như ân sủng dẫn đưa chúng ta đến đó, đều là hồng ân siêu nhiên.
1728. Các mối phúc đặt chúng ta trước những lựa chọn luân lý có tính quyết định về của cải trần thế; chúng thanh luyện trái tim chúng ta để dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.
1729. Vinh phúc trên trời ấn định những tiêu chuẩn để phân định việc sử dụng của cải trần thế theo Lề luật của Thiên Chúa.
Chú thích
16 Thánh Augustinô, De moribus Ecclesiae catholicae, 1, 3, 4: CSEL 90,6 (PL 32,1312).
17 Thánh Augustinô, Confessiones, 10, 20, 29: CCL 27,170 (PL 32,791).
18 Thánh Tô-ma A-qui-nô, In Symbolum Apostolorum scilicet “Credo in Deum” expositio, c. 15: Opera omnia, v. 27 (Parisiis 1875) 228.
19 X. Mt 4,17.
20 X. 1 Ga 3,2; 1 Cr 13,12.
21 X. Mt 25,21.23.
22 X. Dt 4,7-11.
23 Thánh Augustinô, De civitate Dei, 22, 30: CSEL 40/2, 670 (PL 41,804).
24 X. Ga 17,3.
25 X. Rm 8,18.
26 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 4, 20, 5: SC 100,638.
27 Gio-an Henri Newman, Discourses addressed to Mixed Congregations, 5 [Saintliness the Standard of Christian Principle] (Westminster 1966) 89-91.
28 X. dụ ngôn Người gieo giống, Mt 13,3-23.
Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)
1730. 30
Thiên Chúa đã tạo dựng con người có lý trí, khi ban cho họ phẩm giá của một ngôi vị, có khả năng khởi xướng và điều khiển các hành vi của mình. “Thiên Chúa đã muốn con người ‘tự quyết định lấy’ (Hc 15,14), để chính họ tự nguyện tìm kiếm Đấng Tạo hóa của mình và tự do đạt tới sự hoàn hảo sung mãn và hạnh phúc bằng việc kết hợp với Ngài.”29
“Con người có lý trí, và do đó giống như Thiên Chúa; con người được dựng nên có tự do trong sự quyết định và có quyền trên chính mình.”30
I. Sự tự do và trách nhiệm (1731-1738)
1731. 1721
Tự do là khả năng, bắt nguồn từ lý trí và ý chí, có thể hành động hay không hành động, có thể làm việc này hoặc việc khác, và như vậy, tự mình làm những hành động có ý thức. Nhờ có ý chí tự do, mỗi người tự quyết định về chính bản thân mình. Trong con người, sự tự do là một sức mạnh để tăng trưởng và trưởng thành trong chân lý và điều thiện. Sự tự do đạt tới mức hoàn hảo, khi nó được quy hướng về Thiên Chúa, là vinh phúc của chúng ta.
1732. 396, 1849, 2006
Bao lâu sự tự do chưa được xác định cách vĩnh viễn nơi sự thiện tối thượng, là Thiên Chúa, thì nó vẫn còn có khả năng lựa chọn giữa điều tốt và điều xấu, nghĩa là có thể tiến tới sự trọn hảo hoặc có thể sai lỗi và phạm tội. Tự do là nét đặc trưng của các hành vi nhân linh. Tự do là nguồn mạch để được ca tụng hoặc bị khiển trách, nguồn mạch của công trạng hoặc tội trạng.
1733. 1803
Ai càng làm điều tốt, người đó càng trở nên tự do. Không có tự do đích thực nếu không phục vụ điều thiện và chân lý. Chọn sự bất tuân và điều xấu, là lạm dụng tự do và sự lựa chọn này đưa chúng ta vào vòng nô lệ tội lỗi.31
1734. 1036, 1804
Vì có tự do, con người phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình theo mức độ các hành vi này do chính họ muốn. Sự tiến tới về nhân đức, sự nhận biết điều thiện và sự khổ chế làm gia tăng việc làm chủ của ý chí đối với các hành vi của mình.
1735. 597
Việc quy tội và trách nhiệm của một hành động nào đó có thể được giảm thiểu và thậm chí được loại bỏ vì lý do không biết, không chú ý, do áp lực, do sợ hãi, do thói quen, do quá gắn bó, và do các nguyên nhân khác về tâm thần hoặc xã hội.
1736. 2568
Mọi hành vi được muốn cách trực tiếp đều quy trách nhiệm về tác giả hành vi đó:
Chẳng hạn, Chúa hỏi ông A-đam sau khi ông phạm tội trong vườn địa đàng: “Ngươi đã làm gì thế?” (St 3,13). Cũng một cách đó, Chúa hỏi ông Ca-in.32 Tiên tri Na-than cũng hỏi như vậy với vua Đa-vít sau khi vua phạm tội ngoại tình với vợ ông U-ri-gia và ra lệnh giết ông này.33
Một hành vi có thể là chủ ý cách gián tiếp, khi nó là hậu quả của sự chểnh mảng đối với điều phải biết hay phải làm, thí dụ gây ra một tai nạn vì không biết luật giao thông.
1737. 2263
Một hậu quả, do tác giả không chủ ý gây nên, có thể được dung thứ; thí dụ người mẹ bị kiệt sức vì chăm sóc đứa con đau yếu. Một hậu quả xấu sẽ không bị quy tội, nếu nó không phải là mục đích hay phương tiện của một hành động cố ý, thí dụ một người bị thiệt mạng vì cứu người đang gặp nguy hiểm. Để một hậu quả xấu bị quy tội, hậu quả này phải có thể được thấy trước, và tác giả có khả năng tránh được hậu quả đó, thí dụ trường hợp làm chết người do lái xe trong tình trạng say rượu.
1738. 2106, 2109
Sự tự do được thực thi trong các tương quan giữa người với người. Mỗi nhân vị, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, có quyền tự nhiên được công nhận như một hữu thể tự do và có trách nhiệm. Mọi người có bổn phận tôn trọng quyền đó của mỗi người. Quyền sử dụng sự tự do là một đòi hỏi không thể tách biệt khỏi phẩm giá của nhân vị, đặc biệt trong lãnh vực luân lý và tôn giáo.34 Quyền này phải được luật dân sự công nhận và bảo vệ trong các giới hạn của công ích và trật tự công cộng chính đáng.35
II. Sự tự do của con người trong Nhiệm cục cứu độ (1739-1742)
1739. 387, 401
Sự tự do và tội lỗi. Sự tự do của con người thì có giới hạn và có thể lầm lạc. Quả thật, con người đã sa ngã. Con người đã phạm tội cách tự do. Khi từ chối kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, con người đã tự lừa dối mình; và trở thành nô lệ của tội lỗi. Sự tha hóa đầu tiên này đã sinh ra nhiều sự tha hóa khác. Lịch sử nhân loại, ngay từ những lúc khởi đầu, làm chứng rằng những tai họa và áp bức đã phát sinh từ trái tim con người, như hậu quả của việc sử dụng sai sự tự do.
Bài này đã được xem 7993 lần!