GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

1740. 2108, 1887

Những nguy hiểm đe dọa sự tự do. Việc thực thi sự tự do không bao hàm quyền được nói mọi sự và làm mọi sự. Thật là sai lầm khi cho rằng “con người, một chủ thể của tự do, là một cá nhân tự đủ cho mình, và mục tiêu tối hậu của cá nhân đó, là thỏa mãn các sở thích của mình bằng cách hưởng thụ các của cải trần thế.”36 Ngoài ra, những điều kiện về trật tự kinh tế và xã hội, chính trị và văn hóa phải có để thực thi tự do cách chính đáng, rất thường không được biết tới và bị vi phạm. Những tình trạng đen tối và bất công này làm băng hoại đời sống luân lý và cám dỗ kẻ mạnh cũng như người yếu phạm tội nghịch đức bác ái. Con người, khi tách biệt mình khỏi luật luân lý, làm tổn thương sự tự do riêng của mình, tự trói buộc mình, cắt đứt tình huynh đệ với đồng loại và nổi loạn chống lại chân lý thần linh.

1741. 782

Sự giải thoát và cứu độ. Đức Ki-tô, nhờ thập giá vinh quang của Người, đã mang lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Người cứu chuộc họ khỏi tội lỗi đang cầm giữ họ làm nô lệ. “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1). Trong Người, chúng ta được hiệp thông với chân lý giải thoát chúng ta.37 Chúa Thánh Thần đã được ban cho chúng ta và như thánh Tông Đồ dạy: “Ở đâu có Thần Khí của Chúa thì ở đó có tự do” (2 Cr 3,17). Ngay bây giờ, chúng ta được vinh dự về sự tự do của con cái Thiên Chúa.38

1742. 2002, 1784

Sự tự do và ân sủng. Ân sủng của Đức Ki-tô không hề đối nghịch với sự tự do của chúng ta, khi sự tự do này phù hợp với ý nghĩa của chân lý và điều thiện mà Thiên Chúa đã đặt trong trái tim con người. Trái lại, như kinh nghiệm Ki-tô Giáo chứng tỏ nhất là trong việc cầu nguyện, chúng ta càng ngoan ngoãn đối với những thúc đẩy của ân sủng, thì càng được gia tăng sự tự do nội tâm của chúng ta và sự vững vàng của chúng ta trong các thử thách, cũng như trước những áp lực và cưỡng bách của thế giới bên ngoài. Bằng tác động của ân sủng, Chúa Thánh Thần giáo dục chúng ta về sự tự do thiêng liêng, để làm cho chúng ta trở thành những cộng sự viên tự nguyện cho công trình của Ngài trong Hội Thánh và trong trần gian:

“Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu,
xin đẩy xa những gì cản bước tiến của chúng con trên đường về với Chúa,
để một khi xác hồn thanh thản,
chúng con được hoàn toàn tự do thực hiện ý Chúa.”39

Tóm lược (1743-1748)

1743. “Thiên Chúa đã muốn con người tự quyết định lấy” (Hc 15,14) để họ có thể tự nguyện gắn bó với Đấng Tạo hóa của mình và như vậy, có thể đạt tới vinh phúc hoàn hảo.40

1744. Sự tự do là khả năng để hành động hay không hành động và như vậy, tự mình làm những hành động có ý thức. Sự tự do đạt tới mức hoàn hảo khi nó được quy hướng về Thiên Chúa là sự thiện tối thượng.

1745. Tự do là nét đặc trưng của các hành vi nhân linh. Vì có tự do, con người phải chịu trách nhiệm về các hành vi mình chủ ý làm. Hành động chủ ý thuộc về chính tác giả.

1746. Việc quy tội và trách nhiệm của một hành động nào đó có thể được giảm thiểu hay được loại bỏ vì lý do không biết, do áp lực, do sợ hãi, và do các nguyên nhân khác về tâm thần hoặc xã hội.

1747. Quyền sử dụng sự tự do là một đòi hỏi không thể tách biệt khỏi phẩm giá của nhân vị, đặc biệt trong lãnh vực tôn giáo và luân lý. Nhưng việc thực thi sự tự do không bao hàm quyền tiên quyết được làm mọi sự hoặc nói mọi sự.

1748. “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1).


Chú thích

29 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 17: AAS 58 (1966) 1037.

30 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 4, 4, 3: SC 100,424 (PG 7,983).

31 X. Rm 6,17.

32 X. St 4,10.

33 X. 2 Sm 12,7-15.

34 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 2: AAS 58 (1966) 930-931.

35 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 7: AAS 58 (1966) 934-935.

36 Thánh bộ Giáo lý Đức Tin, Huấn thị Libertatis conscientia, 13: AAS 79 (1987) 559.

37 X. Ga 8,32.

38 X. Rm 8,21.

39 Chúa Nhật XXXII Mùa thường niên, Lời nguyện nhập lễ : Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 371.

40 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 17: AAS 58 (1966) 1037.

 

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

1749. Sự tự do làm cho con người thành một chủ thể luân lý. Con người, khi hành động một cách có chủ ý, có thể nói được là cha đẻ các hành vi của mình. Các hành vi nhân linh, nghĩa là, các hành vi đã được lựa chọn cách tự do theo phán đoán của lương tâm, đều có tính luân lý: chúng là những hành vi tốt hoặc xấu.

I. Các nguồn mạch của tính luân lý (1750-1754)

1750. Tính luân lý của các hành vi nhân linh tùy thuộc vào:

– đối tượng được lựa chọn;

– mục đích nhắm tới hoặc ý hướng;

– các hoàn cảnh của hành động.

Đối tượng, ý hướng và các hoàn cảnh tạo nên các “nguồn mạch”, còn gọi là các yếu tố cấu thành, của tính luân lý của các hành vi nhân linh.

1751. 1794

Đối tượng được lựa chọn là điều thiện được ý chí chủ ý nhắm tới. Đó là chất liệu của hành vi nhân linh. Đối tượng được lựa chọn xếp loại hành vi của ý chí về mặt luân lý, theo như lý trí nhận biết và phán đoán đối tượng ấy phù hợp hay không phù hợp với điều thiện đích thực. Những quy tắc khách quan của tính luân lý vạch cho thấy trật tự hợp lý về điều tốt và điều xấu, một trật tự được lương tâm xác nhận.

1752. 2520, 1731

Đối diện với đối tượng, ý hướng ở về phía chủ thể hành động. Vì ý hướng là từ nguồn mạch chủ ý của một hành động và xác định hành động đó nhờ mục đích, nên nó là yếu tố căn bản trong việc đánh giá tính luân lý của hành động. Mục đích là điểm đầu tiên của ý hướng và đưa ra mục tiêu mà hành động theo đuổi. Ý hướng là động thái của ý chí hướng tới mục đích; nhắm đến đích điểm của hành động. Ý hướng là việc nhắm tới điều thiện được mong đợi khi bắt đầu hành động. Ý hướng không bị thu hẹp vào việc định hướng cho từng hành động riêng lẻ, nhưng có thể quy hướng nhiều hành động nhắm đến cùng một mục tiêu; ý hướng có thể định hướng cả cuộc đời nhắm đến mục đích tối hậu. Chẳng hạn, một việc phục vụ được thực hiện có mục đích là giúp đỡ người lân cận, nhưng đồng thời nó có thể được linh hứng bởi tình yêu Thiên Chúa, xét như mục đích tối hậu của mọi hành động của chúng ta. Cùng một hành động cũng có thể được gợi hứng do nhiều ý hướng, như phục vụ để nhận được một đặc ân hoặc để khoe khoang.

1753. 2479, 596

Một ý hướng tốt (thí dụ: giúp đỡ người lân cận) không thể làm cho một hành động tự nó là sai trái (như nói dối, nói xấu), trở thành tốt hay đúng. Mục đích không biện minh cho các phương tiện. Như vậy, việc kết án người vô tội không thể được biện minh như một phương tiện hợp pháp để cứu dân. Trái lại, một ý hướng xấu được thêm vào (như tìm hư danh) có thể làm cho một hành vi tự nó có thể là tốt (như việc bố thí41) trở thành xấu.

1754. 1735

Các hoàn cảnh, gồm cả những hậu quả, là những yếu tố phụ thuộc của một hành vi luân lý. Chúng góp phần làm gia tăng hay giảm thiểu tính chất tốt hay xấu về mặt luân lý của các hành vi nhân linh (thí dụ số lượng của một vụ ăn cắp nào đó). Chúng cũng có thể làm giảm thiểu hay gia tăng trách nhiệm của tác giả (như hành động vì sợ chết). Tự chúng, các hoàn cảnh không thể thay đổi phẩm chất luân lý của chính các hành vi; chúng không thể làm cho một hành vi tự nó là xấu, có thể trở nên tốt hay đúng.

II. Hành vi tốt và hành vi xấu (1755-1756)

1755. Một hành vi tốt về mặt luân lý đồng thời giả thiết đối tượng, mục đích và các hoàn cảnh đều phải tốt. Mục đích xấu làm hư hoại hành động, mặc dù đối tượng của hành động tự nó là tốt (như cầu nguyện và ăn chay để được người ta trông thấy).

Đối tượng được lựa chọn có thể một mình nó làm cho toàn bộ hành động trở nên xấu. Có những hành động cụ thể – như tội tà dâm – mà việc lựa chọn chúng là luôn luôn sai lầm, bởi vì việc lựa chọn chúng đã bao hàm một sự lệch lạc của ý chí, nghĩa là, một điều xấu luân lý.

1756. 1789

Vì vậy, là sai lầm, nếu thẩm định tính luân lý của các hành vi nhân linh, mà chỉ quan tâm đến ý hướng gợi hứng cho các hành vi đó, hoặc các hoàn cảnh như là “sân khấu” của các hành vi đó (môi trường, áp lực xã hội, sự cưỡng bách hoặc nhu cầu phải hành động…). Có những hành vi, tự nó và trong nó, hoàn toàn độc lập khỏi các hoàn cảnh và các ý hướng, luôn là bất hợp pháp một cách nghiêm trọng do đối tượng của chúng; chẳng hạn lộng ngôn và thề gian, sát nhân và ngoại tình. Không được phép làm điều xấu, để từ đó đạt tới điều tốt.

Tóm lược (1757-1761)

1757. Đối tượng, ý hướng và các hoàn cảnh tạo nên ba “nguồn mạch” của tính luân lý của các hành vi nhân linh.

1758. Đối tượng được lựa chọn xếp loại hành vi của ý chí về mặt luân lý, theo như lý trí nhận biết và phán đoán đối tượng ấy là tốt hay xấu.

1759. “Không việc xấu nào được biện minh bằng ý hướng tốt.”42 Mục đích không biện minh cho các phương tiện.

1760. Một hành vi tốt về mặt luân lý đồng thời giả thiết phải có đối tượng, mục đích và các hoàn cảnh đều tốt.

1761. Có những hành động cụ thể mà việc lựa chọn chúng là luôn luôn sai lầm, bởi vì việc lựa chọn chúng đã bao hàm một sự lệch lạc của ý chí, nghĩa là, một điều xấu luân lý. Không được phép làm điều xấu để từ đó đạt tới điều tốt.


Chú thích

41 X. Mt 6,2-4.

42 Thánh Tô-ma A-qui-nô, In duo praecepta caritatis et in decem Legis praecepta expositio, c. 6: Opera omnia, v. 27 (Parisiis 1875) 149.

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

1762. Nhân vị được quy hướng tới vinh phúc nhờ những hành vi chủ ý của mình: các đam mê hoặc tình cảm mà nó cảm nghiệm, có thể chuẩn bị hoặc góp phần giúp nó đạt tới vinh phúc đó.

I. Các đam mê (1763-1766)

1763. Thuật ngữ “các đam mê” thuộc về gia sản Ki-tô Giáo. Các tình cảm hoặc các đam mê là những cảm xúc, những chuyển biến hay những rung động của sự nhạy cảm, chúng thúc đẩy con người hành động hay không hành động, theo điều được cảm nhận hoặc tưởng tượng là tốt hoặc xấu.

1764. 368

Các đam mê là những yếu tố tự nhiên của tâm lý con người. Chúng tạo thành nơi chuyển tiếp và bảo đảm mối liên kết giữa đời sống cảm giác và đời sống tinh thần. Chúa chúng ta coi trái tim con người như là nguồn mạch từ đó phát xuất các chuyển biến của đam mê.43

1765. Có nhiều thứ đam mê. Đam mê căn bản nhất là tình yêu, được gợi lên do sự hấp dẫn của điều thiện. Tình yêu gây nên sự khao khát điều thiện mình chưa có và niềm hy vọng đạt được điều thiện đó. Động thái này được hoàn thành trong việc thưởng thức điều thiện đã sở hữu và trong sự vui mừng về điều đó. Sự hiểu biết điều ác gây nên lòng thù ghét, ghê tởm và sợ hãi điều ác sắp đến. Động thái này được hoàn thành trong sự buồn sầu khi điều ác hiện diện, và trong sự phẫn nộ chống lại điều ác đó.

1766. 1704

“Yêu là muốn điều tốt cho một ai đó.”44 Tất cả những tình cảm khác đều bắt nguồn từ động thái gốc này của trái tim con người về điều tốt. Không gì khác được yêu mến trừ điều tốt.45 “Vì vậy, các tình cảm là xấu, nếu là tình yêu xấu, các tình cảm là tốt, nếu là tình yêu tốt.”46

II. Các đam mê và đời sống luân lý (1767-1770)

1767. 1860

Các đam mê, tự chúng, thì không tốt cũng không xấu. Chúng được đánh giá về mặt luân lý tùy theo mức độ chúng lệ thuộc thật sự vào lý trí hoặc ý chí. Các đam mê được gọi là có chủ ý “hoặc khi chúng được điều khiển bởi ý chí, hoặc khi chúng không bị ngăn cản bởi ý chí.”47 Muốn đạt tới sự hoàn hảo của điều thiện về mặt luân lý hay nhân linh, các đam mê phải được điều khiển bởi lý trí.48

1768. 1803, 1865

Những cảm giác mạnh mẽ của tâm hồn không quyết định tính luân lý hay sự thánh thiện của các nhân vị; chúng chỉ là kho chứa vô tận những hình ảnh và tình cảm trong đó đời sống luân lý được diễn tả. Về mặt luân lý, các đam mê là tốt khi đưa đến một hành động tốt, và là xấu trong trường hợp ngược lại. Ý chí ngay thẳng quy hướng các động thái giác quan, mà nó đảm nhận, về điều tốt và về vinh phúc; còn ý chí xấu thì ngả theo các đam mê hỗn loạn và làm cho chúng thêm tồi tệ. Các cảm xúc và cảm giác có thể được thăng hoa thành các nhân đức, hoặc bị thoái hóa thành các thói xấu.

1769. Trong đời sống Ki-tô hữu, chính Chúa Thánh Thần kiện toàn công trình của Ngài, khi động viên toàn bộ nhân vị, kể cả những đau khổ, sợ hãi và buồn phiền của họ, như ta thấy trong cơn hấp hối và cuộc khổ nạn của Chúa. Trong Đức Ki-tô, những tình cảm nhân loại có thể được hoàn tất trong đức mến và vinh phúc thần linh.

1770. 30

Sự trọn hảo về mặt luân lý là con người được động viên hướng tới điều thiện không những bằng ý chí của mình, mà còn bằng sự thích thú giác quan nữa, theo như lời thánh vịnh: “Cả tấm thân con cùng là tấc dạ những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng” (Tv 84,3).

Tóm lược (1771-1775)

1771. Thuật ngữ “đam mê” chỉ những tình cảm hay cảm giác. Nhờ những cảm xúc của mình, con người linh cảm điều tốt hoặc nghi ngờ điều xấu.

1772. Những đam mê chính là yêu và ghét, ước muốn và sợ hãi, vui, buồn và phẫn nộ.

1773. Trong các đam mê, xét như những động thái của cảm giác, không có điều tốt hoặc điều xấu về mặt luân lý. Nhưng nơi chúng có điều tốt hoặc điều xấu về mặt luân lý là do chúng lệ thuộc hay không lệ thuộc vào lý trí và ý chí.

1774. Những cảm xúc và tình cảm có thể được thăng hoa thành các nhân đức, hoặc bị thoái hóa thành các thói xấu.

1775. Sự trọn hảo của điều tốt về mặt luân lý là con người được động viên hướng tới điều thiện không những bằng ý chí, mà còn bằng cả “trái tim” của họ nữa.


Chú thích

43 X. Mc 7,21.

44 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, I-II, q. 26, a. 4, c: Ed. Leon. 6, 190.

45 X. Thánh Augustinô, De Trinitate, 8, 3, 4: CCL 50,271-272 (PL 42,949).

46 Thánh Augustinô, De civitate Dei, 14, 7: CSEL 40/2, 13 (PL 41,410).

47 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, I-II, q. 24, a. 1, c: Ed. Leon. 6, 179.

48 X. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, I-II, q. 24, a. 3, c: Ed. Leon. 6, 181.

 

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

1776. 1954

“Con người khám phá ra tận đáy lương tâm một lề luật, mà chính con người không tự đặt ra cho mình, nhưng con người phải tuân theo lề luật đó, và tiếng nói của lề luật đó, luôn luôn kêu gọi con người yêu mến và làm điều tốt cũng như tránh điều xấu, vào lúc cần thiết, tiếng nói ấy vang lên trong trái tim con người… Quả thật, con người có một lề luật được Thiên Chúa khắc ghi trong trái tim họ… Lương tâm là hạt nhân bí ẩn nhất và là cung thánh của con người, nơi con người ở một mình với Thiên Chúa, và tiếng nói của Ngài vang dội trong thẳm sâu lòng họ.”49

I. Phán đoán của lương tâm (1777-1782)

1777. 1766, 2071

Lương tâm,50 hiện diện trong trái tim của nhân vị, ra lệnh cho nó, vào đúng lúc, phải làm lành lánh dữ. Lương tâm cũng phán đoán các lựa chọn cụ thể, là chuẩn y những lựa chọn tốt, phản đối những lựa chọn xấu.51 Lương tâm chứng nhận thẩm quyền về chân lý liên quan đến Đấng là sự thiện tối thượng, mà nhân vị cảm nghiệm được sự lôi kéo của Ngài và đón nhận các lệnh truyền của Ngài. Người khôn ngoan, khi lắng nghe lương tâm, có thể nghe Thiên Chúa nói.

1778. 1749

Lương tâm là sự phán đoán của lý trí, nhờ đó, nhân vị nhận thức được phẩm chất luân lý của một hành vi cụ thể mình sắp làm, đang làm hay đã làm. Con người, trong mọi điều mình nói hoặc làm, buộc phải trung thành theo điều mình biết là chính đáng và trung thực. Con người, nhờ phán đoán của lương tâm của mình, cảm thấy và nhận biết những quy định của Lề luật thần linh:

“Lương tâm là một lề luật của tinh thần chúng ta, nhưng lại vượt quá tinh thần chúng ta, nó đưa ra cho chúng ta những quy định, nó nói lên trách nhiệm và bổn phận, sự sợ hãi và niềm hy vọng… Lương tâm là sứ giả của Đấng, trong trật tự tự nhiên cũng như trong trật tự ân sủng, nói với chúng ta sau một bức màn, dạy dỗ và hướng dẫn chúng ta. Lương tâm là vị đại diện thứ nhất trong tất cả các đại diện của Đức Ki-tô.”52

1779. 1886

Điều quan trọng là mỗi người phải hiện diện với chính mình, để lắng nghe và tuân theo tiếng lương tâm của mình. Sự đòi hỏi sống nội tâm là rất cần thiết, vì đời sống thường dẫn chúng ta đến nguy cơ là chúng ta bị lôi kéo khỏi mọi suy tư, kiểm điểm hay hồi tâm:

“Bạn hãy quay về với lương tâm của bạn, hãy tự vấn lương tâm… Thưa anh em, hãy quay về với nội tâm và trong mọi sự anh em làm, hãy nhìn lên chứng nhân là Thiên Chúa.”53

1780. 1806

Phẩm giá của nhân vị bao hàm và đòi hỏi sự ngay chính của lương tâm. Lương tâm gồm có việc nhận thức các nguyên tắc luân lý (synderesim), việc áp dụng những nguyên tắc đó vào các hoàn cảnh cụ thể nhờ phân định thực tiễn các lý lẽ và các lợi ích, và cuối cùng, việc phán đoán về các hành vi cụ thể phải làm hay đã làm. Chân lý về điều thiện luân lý, đã được lý trí nêu lên, được nhận biết cách thực tiễn và cụ thể nhờ phán đoán khôn ngoan của lương tâm. Người chọn theo phán đoán này được gọi là kẻ khôn ngoan.

1781. 1731

Lương tâm cho phép đảm nhận trách nhiệm về những hành vi đã thực hiện. Nếu con người làm điều xấu, phán đoán ngay chính của lương tâm nơi người đó có thể là chứng nhân cho chân lý phổ quát của điều tốt, đồng thời cũng là chứng nhân cho sự xấu xa của việc lựa chọn riêng của người đó. Án lệnh do phán đoán của lương tâm cũng là bảo chứng cho niềm hy vọng và lòng thương xót. Khi xác nhận lỗi lầm đã phạm, lương tâm nhắc nhở chúng ta phải cầu xin ơn tha thứ, phải làm điều tốt và phải không ngừng vun trồng nhân đức nhờ ân sủng của Thiên Chúa:

Bài này đã được xem 5730 lần!

Pages ( 62 of 96 ): <1 ... 6061 62 6364 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]