“Chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (1 Ga 3,19-20).
1782. 2106
Con người có quyền hành động cách tự do theo lương tâm, để có thể đảm nhận những quyết định luân lý một cách cá vị. “Không được cưỡng bức ai hành động trái với lương tâm của họ. Cũng không được ngăn cản họ hành động theo lương tâm của họ, nhất là trong vấn đề tôn giáo.”54
II. Việc huấn luyện lương tâm (1783-1785)
1783. 2039
Lương tâm phải được trở nên vững chắc hơn và sự phán đoán luân lý phải được soi sáng. Một lương tâm được huấn luyện tốt thì ngay chính và chân thật. Nó sẽ đưa ra những phán đoán theo lý trí, phù hợp với điều thiện đích thực mà Đấng Tạo hóa khôn ngoan muốn. Việc giáo dục lương tâm là cần thiết cho con người, vì họ đang bị chi phối bởi các ảnh hưởng tiêu cực và bị cám dỗ bởi tội lỗi, nên thích làm theo ý riêng hơn và khước từ những đạo lý được đưa ra một cách có thẩm quyền.
1784. 1742
Việc giáo dục lương tâm là nhiệm vụ của cả cuộc đời. Ngay từ những năm đầu tiên, việc giáo dục gợi lên cho trẻ em sự nhận biết và thực hành luật nội tâm được lương tâm công nhận. Một nền giáo dục khôn ngoan dạy nhân đức; đề phòng và chữa lành con người khỏi sợ hãi, khỏi yêu mình cách mù quáng (“tính ích kỷ”) và khỏi kiêu căng, khỏi những mặc cảm tội lỗi và thái độ tự mãn, phát sinh từ sự yếu đuối và những lỗi lầm của con người. Việc giáo dục lương tâm bảo đảm cho sự tự do và tạo nên sự bình an trong trái tim.
1785. 890
Trong việc huấn luyện lương tâm, Lời Chúa là ánh sáng soi đường cho chúng ta. Chúng ta phải thấm nhuần Lời Chúa vào trong đức tin và kinh nguyện, và phải đem ra thực hành. Chúng ta cũng phải kiểm điểm lương tâm bằng cách nhìn lên thập giá của Chúa. Các hồng ân của Chúa Thánh Thần trợ giúp chúng ta, chúng ta còn được giúp đỡ bởi lời chứng và lời khuyên nhủ của những người khác và được hướng dẫn bởi đạo lý của Hội Thánh được đưa ra một cách có thẩm quyền.55
III. Chọn lựa theo lương tâm (1786-1789)
1786. Lương tâm, đứng trước một lựa chọn luân lý, có thể đưa ra, hoặc một phán đoán ngay chính phù hợp với lý trí và Lề luật thần linh, hoặc trái lại, một phán đoán sai lầm, xa rời lý trí và Lề luật thần linh.
1787. 1955
Con người đôi khi gặp những hoàn cảnh làm cho phán đoán luân lý không được chắc chắn và khó quyết định. Tuy nhiên, họ phải luôn tìm kiếm điều đúng và tốt, và phân định ra thánh ý của Thiên Chúa được diễn tả trong Lề luật thần linh.
1788. 1806
Để đạt được điều này, con người phải cố gắng giải thích các dữ kiện của kinh nghiệm và các dấu chỉ thời đại, nhờ đức khôn ngoan, nhờ những lời khuyên bảo của những người khôn ngoan và nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần và của các hồng ân của Ngài.
1789. 1756, 1970, 1827, 1971
Một số quy tắc được áp dụng trong mọi trường hợp:
– Không bao giờ được làm điều xấu để đạt tới điều tốt.
– “Khuôn vàng thước ngọc”: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12).56
– Đức mến luôn đòi hỏi tôn trọng người lân cận và lương tâm của họ. “Như vậy, phạm đến anh em và làm thương tổn lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến Đức Ki-tô” (1 Cr 8,12). “Tốt nhất là… tránh những gì có thể gây cớ cho anh em mình vấp ngã” (Rm 14,21).
IV. Phán đoán sai lầm (1790-1794)
1790. Con người phải luôn tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình. Nếu chủ ý hành động nghịch với phán đoán đó, con người tự kết án chính mình. Nhưng có thể lương tâm ở trong tình trạng thiếu hiểu biết, và đưa ra những phán đoán sai lầm về các hành vi phải làm hoặc đã làm.
1791. 1704
Sự thiếu hiểu biết này thường có thể được quy cho trách nhiệm cá vị. Điều đó xảy ra, “khi con người ít lo tìm kiếm điều thật và điều tốt, cũng như khi vì thói quen phạm tội mà lương tâm dần dần hầu như bị mù quáng.”57 Trong các trường hợp đó, nhân vị bị quy tội vì điều xấu nó đã làm.
1792. 133
Sự thiếu hiểu biết Đức Ki-tô và Tin Mừng của Người, các gương xấu của kẻ khác, sự nô lệ các đam mê, việc đòi hỏi một sự tự lập hiểu theo nghĩa xấu về lương tâm, việc khước từ thẩm quyền và đạo lý của Hội Thánh, sự thiếu hối cải và bác ái… có thể là nguồn gốc của những lệch lạc của phán đoán trong thái độ luân lý.
1793. 1860
Trái lại, nếu sự thiếu hiểu biết là không thể vượt thắng được, hoặc nếu phán đoán sai lầm không do trách nhiệm của chủ thể luân lý, thì nhân vị không thể bị quy tội về điều xấu nó đã làm. Tuy nhiên, điều xấu ấy vẫn là một điều xấu, một khiếm khuyết, một sự vô trật tự. Vậy cần thiết là phải làm sao để lương tâm được sửa chữa khỏi những sai lầm của nó.
1794. 1751
Lương tâm tốt và trong sạch được soi sáng bởi đức tin chân thật. Vì đức mến xuất phát đồng thời từ “tâm hồn trong sạch, lương tâm ngay thẳng và đức tin không giả hình” (1 Tm 1,5).58 “Lương tâm ngay thẳng càng chiếm ưu thế thì các nhân vị và các tập thể càng tránh được sự quyết định mù quáng và càng nỗ lực sống phù hợp với những quy định khách quan của luân lý.”59
Tóm lược (1795-1802)
1795. “Lương tâm là hạt nhân bí ẩn nhất và là cung thánh của con người, nơi con người ở một mình với Thiên Chúa, và tiếng nói của Ngài vang dội trong thẳm sâu lòng họ.”60
1796. Lương tâm là sự phán đoán của lý trí, nhờ đó, nhân vị nhận thức được phẩm chất luân lý của một hành vi cụ thể.
1797. Đối với kẻ làm điều xấu, phán đoán của lương tâm còn là bảo chứng cho sự hối cải và niềm hy vọng.
1798. Một lương tâm được huấn luyện tốt thì ngay chính và chân thật. Nó sẽ đưa ra những phán đoán theo lý trí, phù hợp với điều thiện đích thực mà Đấng Tạo hóa khôn ngoan muốn. Mỗi người phải đảm nhận các phương tiện để huấn luyện lương tâm mình.
1799. Lương tâm, trước một sự lựa chọn luân lý, có thể đưa ra, hoặc một phán đoán ngay thẳng phù hợp với lý trí và Lề luật thần linh, hoặc trái lại, một phán đoán sai lầm, xa rời lý trí và Lề luật thần linh.
1800. Con người luôn phải tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình.
1801. Lương tâm có thể ở trong tình trạng thiếu hiểu biết hoặc đưa ra những phán đoán sai lầm. Sự thiếu hiểu biết này và những sai lầm đó không phải luôn tránh được sự quy tội.
1802. Lời Chúa là ánh sáng soi đường cho chúng ta. Phải thấm nhuần Lời Chúa vào đức tin và kinh nguyện, và đem ra thực hành. Như vậy, lương tâm được huấn luyện.
Chú thích
49 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 16: AAS 58 (1966) 1037.
50 X. Rm 2,14-16.
51 X. Rm 1,32.
52 Gio-an Henri Newman, A Letter to the Duke of Norfolk, 5: Certain Difficulties felt by Anglicans in Catholic Teaching, v.2 (Westminster 1969) 248.
53 Thánh Augustinô, In epistulam Ioannis ad Parthos tractatus, 8, 9: PL 35,2041.
54 CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 3: AAS 58 (1966) 932.
55 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 14: AAS 58 (1966) 940.
56 X. Lc 6,31; Tb 4,15.
57 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 16: AAS 58 (1966) 1037.
58 X. 1 Tm 3,9; 2 Tm 1,3; 1 Pr 3,21; Cv 24,16.
59 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 16: AAS 58 (1966) 1037.
60 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 16: AAS 58 (1966) 1037.
Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)
1803. 1733, 1768
“Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Pl 4,8).
Nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên trì để làm điều thiện. Nó khiến nhân vị không những thực hiện những hành vi tốt, mà còn cống hiến những điều tốt nhất của bản thân mình. Người nhân đức hướng về điều thiện với tất cả sức mạnh giác quan và tinh thần của mình; họ theo đuổi và lựa chọn điều thiện bằng những hành động cụ thể của mình:
“Mục đích của một đời sống nhân đức là trở nên giống Thiên Chúa.”61
I. Các nhân đức nhân bản (1804-1811)
1804. 2500, 1827
Các nhân đức nhân bản là những thái độ vững chắc, những xu hướng kiên trì, những trọn hảo thường xuyên của lý trí và ý chí, nhằm điều khiển các hành vi của chúng ta, điều tiết các đam mê của chúng ta, và hướng dẫn nếp sống chúng ta cho phù hợp với lý trí và đức tin. Các nhân đức này đem lại cho con người sự thoải mái, sự tự chủ và niềm vui, để sống một cuộc đời tốt lành về mặt luân lý. Người nhân đức là người thực thi điều thiện cách tự nguyện.
Các nhân đức luân lý được thủ đắc theo cách thức nhân loại. Chúng là hoa trái và mầm mống của những hành vi tốt về mặt luân lý; chúng chuẩn bị mọi năng lực của con người cho việc hiệp thông với tình yêu của Thiên Chúa.
Nét đặc biệt của các nhân đức trụ (1805-1809)
1805. Có bốn nhân đức giữ nhiệm vụ “cột trụ.” Vì vậy, chúng được gọi là các nhân đức “trụ”; mọi nhân đức khác đều quy tụ quanh bốn nhân đức này. Đó là khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ. “Con người mến chuộng đức công bằng ư? Thì chính Đức Khôn Ngoan sản sinh các nhân đức: Quả vậy, Đức Khôn Ngoan dạy cho biết sống tiết độ, cẩn trọng, công bằng và dũng mãnh” (Kn 8,7). Các nhân đức này còn được ca ngợi trong nhiều đoạn văn của Thánh Kinh bằng những danh xưng khác.
1806. 1788, 1780
Khôn ngoan là nhân đức giúp lý trí sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh phân định được điều thiện đích thực và lựa chọn những phương tiện thích hợp để đạt tới điều thiện đó. Người “khôn ngoan thì đắn đo từng bước” (Cn 14,15). “Anh em hãy sống chừng mực và tiết độ để có thể cầu nguyện được” (1 Pr 4,7). Sau ông Aristote, thánh Tô-ma đã viết: “Khôn ngoan là quy tắc đúng đắn để hành động.”62 Không được lẫn lộn đức khôn ngoan với tính nhút nhát hay sợ sệt, tráo trở hay lừa đảo. Đức khôn ngoan được gọi là người hướng dẫn các nhân đức (auriga virtutum): thật vậy, nó hướng dẫn các nhân đức khác bằng cách chỉ ra quy tắc và mức độ của chúng. Đức khôn ngoan trực tiếp hướng dẫn sự phán đoán của lương tâm. Người khôn ngoan quyết định và sắp đặt cách hành động của mình theo sự phán đoán này. Nhờ nhân đức này, chúng ta áp dụng các nguyên tắc luân lý vào những trường hợp cụ thể mà không bị sai lầm, và chúng ta vượt qua được những hồ nghi về điều tốt phải làm và điều xấu phải tránh.
1807. 2095, 2401
Công bằng là nhân đức luân lý cốt tại một ý chí liên lỉ và vững chắc, quyết tâm trả lại những gì mình mắc nợ với Thiên Chúa và với người lân cận. Công bằng đối với Thiên Chúa được gọi là “nhân đức thờ phượng.” Đối với người ta, công bằng là tôn trọng quyền lợi của mỗi người và thiết lập sự hài hòa trong các tương quan nhân loại, sự hài hòa này đưa tới việc không thiên vị đối với các nhân vị và đối với công ích. Người công bằng, thường được nhắc đến trong Thánh Kinh, có nét đặc biệt là sự ngay thẳng thường xuyên trong các ý nghĩ của mình và ngay thẳng trong cách hành động đối với người lân cận. “Ngươi không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào” (Lv 19,15). “Người làm chủ hãy đối xử công bằng và đồng đều với các nô lệ, vì biết rằng cả anh em nữa cũng có một Chủ ở trên trời” (Cl 4,1).
1808. 2848, 2473
Can đảm là nhân đức luân lý giúp chúng ta kiên trì và quyết tâm theo đuổi điều thiện giữa những khó khăn trong đời. Nó củng cố sự quyết tâm chống lại các cám dỗ và vượt qua các chướng ngại trong đời sống luân lý. Đức can đảm giúp chúng ta có khả năng chiến thắng sự sợ hãi, thậm chí cả sự chết, đương đầu với sự thử thách và các cuộc bách hại. Nó giúp chúng ta đi đến chỗ từ bỏ và hy sinh mạng sống mình để bảo vệ lẽ phải. “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi” (Tv 118,14). “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
1809. 2341, 2517
Tiết độ là nhân đức luân lý giúp chúng ta điều tiết sức lôi cuốn của những thú vui và giữ sự chừng mực trong việc sử dụng các của cải trần thế. Nó giúp ý chí làm chủ các bản năng và kiềm chế các ham muốn trong những giới hạn của sự lương thiện. Người tiết độ quy hướng các thèm muốn giác quan của mình về điều thiện, giữ được sự cẩn trọng lành mạnh, và không chiều theo sức mạnh của mình mà bước theo các dục vọng của trái tim mình.63 Đức tiết độ thường được ca tụng trong Cựu Ước: “Con đừng buông theo các tham vọng của con, nhưng hãy kiềm chế các dục vọng” (Hc 18,30). Trong Tân Ước, nhân đức này được gọi là “sự chừng mực” hay “sự điều độ.” Chúng ta phải sống “chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2,12).
“Sống tốt lành không là gì khác hơn là yêu mến Thiên Chúa hết trái tim, hết linh hồn và hết tâm trí mình,… tình yêu này phải được gìn giữ trọn vẹn và không hư hoại, đó là phần của đức tiết độ, không bị suy yếu bởi một rối loạn nào, đó là phần của đức can đảm, không phục vụ một ai khác, đó là phần của đức công bằng, tỉnh thức khi phân định các sự việc kẻo dần dần sự lừa đảo hoặc phản bội lẻn vào, đó là phần của đức khôn ngoan.”64
Các nhân đức và ân sủng (1810-1811)
1810. 1266
Các nhân đức nhân bản có được là nhờ sự giáo dục, nhờ các hành vi chủ ý và nhờ luôn cố gắng kiên trì, các nhân đức này được thanh luyện và nâng cao nhờ ân sủng thần linh. Nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa, các nhân đức này tôi luyện tính tình và đem lại sự thoải mái trong việc thực thi điều thiện. Người nhân đức hạnh phúc khi thực thi các nhân đức đó.
1811. 2015
Con người bị tổn thương bởi tội lỗi, không dễ mà giữ được sự quân bình luân lý. Ơn cứu độ của Đức Ki-tô đem lại cho chúng ta ân sủng cần thiết để kiên trì trong việc tìm kiếm các nhân đức. Mỗi người phải luôn cầu xin ơn soi sáng và ơn sức mạnh, luôn chạy đến với các bí tích, luôn cộng tác với Chúa Thánh Thần, nghe theo lời kêu gọi của Ngài để yêu mến điều tốt và giữ mình khỏi điều xấu.
II. Các nhân đức đối thần (1812-1829) [2086-2094; 2656-2658]
1812. Các nhân đức nhân bản được bén rễ trong các nhân đức đối thần, là những nhân đức thích ứng các tài năng của con người để dự phần vào bản tính thần linh.65 Quả vậy, các nhân đức đối thần trực tiếp quy chiếu về Thiên Chúa. Chúng giúp các Ki-tô hữu sống trong tương quan với Ba Ngôi Chí Thánh. Các nhân đức đối thần có Thiên Chúa Nhất Thể Tam Vị là nguồn gốc, động lực và đối tượng.
1813. 2008
Các nhân đức đối thần tạo nền móng, làm sinh động, và là nét đặc thù của các hành vi luân lý của Ki-tô hữu. Chúng định hình và mang lại sự sống cho tất cả các nhân đức luân lý. Các nhân đức này được Thiên Chúa phú bẩm trong linh hồn của các tín hữu, giúp họ có khả năng hành động như con cái của Ngài và đáng hưởng sự sống vĩnh cửu. Các nhân đức đối thần là bảo chứng cho sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Thần trong các năng lực của con người. Có ba nhân đức đối thần là: đức tin, đức cậy và đức mến.66
Đức tin (1814-1816) [142-175]
1814. 506
Đức tin là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa và tất cả những gì Ngài đã nói và đã mặc khải cho chúng ta, và những gì Hội Thánh dạy chúng ta tin, bởi vì Thiên Chúa chính là Chân lý. Nhờ đức tin, “con người tự nguyện phó thác toàn thân cho Thiên Chúa.”67 Vì vậy, ai tin, người đó cố gắng nhận biết và thi hành ý muốn của Thiên Chúa. “Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1,17). Đức tin sống động “hành động nhờ đức mến” (Gl 5,6).
1815. Hồng ân đức tin tồn tại trong người không phạm tội nghịch với đức tin.68 Nhưng “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26). Nếu thiếu đức cậy và đức mến, đức tin sẽ không kết hợp đầy đủ tín hữu với Đức Ki-tô và không làm cho họ trở nên chi thể sống động của Thân Thể Người.
1816. 2471
Người môn đệ Đức Ki-tô không những phải gìn giữ đức tin và sống bởi đức tin, mà còn phải tuyên xưng, can đảm làm chứng và truyền bá đức tin: “Mọi tín hữu… phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Ki-tô trước mặt người ta, và bước theo Người trên đường thập giá, giữa những cuộc bách hại mà Hội Thánh luôn luôn gặp phải.”69 Việc phục vụ và làm chứng cho đức tin là những điều phải có để được cứu độ. “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32-33).
Đức cậy (1817-1821)
1817. 1024
Đức cậy là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta khao khát Nước Trời và đời sống vĩnh cửu là vinh phúc của chúng ta, khi đặt lòng tin tưởng của chúng ta vào các lời hứa của Đức Ki-tô và cậy dựa vào sự trợ giúp của ân sủng của Chúa Thánh Thần, chứ không vào sức mạnh của chúng ta. “Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 10,23). Thiên Chúa “đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Ki-tô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3,6-7).
Bài này đã được xem 5683 lần!