GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

1818. 27

Đức cậy đáp ứng khát vọng hưởng vinh phúc mà Thiên Chúa đã đặt trong trái tim mỗi người; đảm nhận những sự mong đợi đang gợi hứng cho các hoạt động của con người; thanh luyện những mong đợi đó để quy hướng chúng về Nước trời; bảo vệ khỏi sự nản chí của tâm hồn; nâng đỡ khi bị bỏ rơi; mở rộng trái tim bằng sự mong đợi vinh phúc vĩnh cửu. Sự thúc đẩy của đức cậy gìn giữ chúng ta khỏi tính ích kỷ và đưa chúng ta đến với vinh phúc của đức mến.

1819. 146

Đức cậy Ki-tô Giáo đảm nhận và kiện toàn lòng trông cậy của dân Chúa chọn; nguồn gốc và mẫu gương của lòng trông cậy đó là lòng trông cậy của tổ phụ Áp-ra-ham, người đã mãn nguyện với các lời hứa của Thiên Chúa nơi I-xa-ác, và đã được thanh luyện nhờ sự thử thách là cuộc hy tế.70 “Ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc” (Rm 4,18).

1820. 1716, 2772

Từ lúc khởi đầu việc giảng dạy của Chúa Giê-su, đức cậy Ki-tô Giáo được khai triển trong lời loan báo các mối phúc. Các mối phúc nâng niềm hy vọng của chúng ta hướng lên trời, như lên miền Đất hứa mới; vạch đường tới đó qua những thử thách đang chờ đợi các môn đệ của Chúa Giê-su. Nhưng nhờ công nghiệp của Chúa Giê-su Ki-tô và của cuộc khổ nạn của Người, Thiên Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm hy vọng “không phải thất vọng” (Rm 5,5). Chúng ta có niềm hy vọng “như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn”, thả sâu vào “nơi Chúa Giê-su đã vào như người tiền phong mở đường cho chúng ta” (Dt 6,19-20). Đức cậy cũng là vũ khí bảo vệ chúng ta trong cuộc chiến đấu để được cứu độ: “Hãy mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1 Tx 5,8). Đức cậy mang lại cho chúng ta niềm vui ngay cả trong thử thách: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân” (Rm 12,12). Đức cậy được diễn tả và nuôi dưỡng trong kinh nguyện, nhất là trong Lời Kinh của Chúa, là bản toát yếu của tất cả những gì mà đức cậy khiến chúng ta ước ao.

1821. 2016, 1037

Vì vậy, chúng ta có thể trông cậy được hưởng vinh quang thiên quốc đã được Thiên Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Ngài71 và thi hành ý muốn của Ngài.72 Trong bất cứ hoàn cảnh nào, mỗi người phải trông cậy, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, sẽ kiên trì đến cùng,73 và đạt được niềm vui thiên quốc như phần thưởng vĩnh cửu Thiên Chúa ban vì các việc tốt lành đã được thực hiện nhờ ân sủng Đức Ki-tô. Với đức cậy, Hội Thánh cầu nguyện cho “mọi người được cứu độ” (1 Tm 2,4). Hội Thánh mong được kết hợp với Đức Ki-tô, Phu Quân của mình, trong vinh quang thiên quốc:

“Trông cậy đi, hồn tôi hỡi, hãy trông cậy! Ngươi không biết ngày nào và giờ nào. Hãy chuyên cần tỉnh thức, vì mọi sự qua đi nhanh chóng, mặc dầu vì quá nóng lòng nên ngươi hoài nghi điều chắc chắn và cảm thấy khoảng thời gian vắn vỏi lại quá dài. Hãy nhớ rằng, ngươi càng chiến đấu, càng chứng tỏ tình yêu của ngươi đối với Thiên Chúa, và một ngày kia, ngươi sẽ càng vui sướng hơn với Đấng lòng ngươi yêu mến, trong niềm hạnh phúc và say mê bất tận.”74

Đức mến (1822-1829)

1822. 1723

Đức mến là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Ngài, và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến người lân cận như chính mình.

1823. 1970

Chúa Giê-su lấy đức mến làm điều răn mới.75 Khi yêu thương những kẻ thuộc về Người “đến cùng” (Ga 13,1), Người biểu lộ tình yêu của Chúa Cha mà Người đã đón nhận. Khi yêu mến nhau, các môn đệ bắt chước tình yêu của Chúa Giê-su mà họ cũng đã đón nhận. Vì vậy, Chúa Giê-su nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9). Và Người còn nói: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).

1824. 735

Là hoa trái của Thần Khí và là sự viên mãn của Lề luật, đức mến giữ các điều răn của Thiên Chúa và của Đức Ki-tô của Ngài: “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9-10).76

1825. 604

Đức Ki-tô đã chịu chết vì yêu mến chúng ta, khi chúng ta còn là “thù nghịch” (Rm 5,10). Chúa đòi chúng ta rằng, cũng như Người, chúng ta phải yêu mến cả kẻ thù của chúng ta,77 rằng chúng ta phải trở thành người lân cận cho những kẻ ở xa nhất,78 rằng chúng ta phải yêu thương trẻ em79 và người nghèo như chính Người.80

Thánh Tông Đồ Phao-lô đã mô tả một cách tuyệt vời về đức mến: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,4-7).

1826. Thánh Tông Đồ còn nói: không có đức mến, “tôi chẳng là gì.” Và bất cứ điều gì là đặc ân, công việc phục vụ, thậm chí nhân đức… nếu tôi không có đức mến, thì cũng “chẳng ích gì cho tôi.”81 Đức mến cao trọng hơn mọi nhân đức. Đức mến đứng đầu các nhân đức đối thần: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13,13).

1827. 815, 826

Việc thực thi tất cả các nhân đức được nên sinh động và được gợi hứng bởi đức mến. Nhân đức này là “mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14); là mô thể của các nhân đức; liên kết và phối hợp các nhân đức; là nguồn mạch và cùng đích của việc thực hành các nhân đức Ki-tô Giáo. Đức mến củng cố và thanh luyện khả năng yêu thương của con người. Đức mến nâng khả năng này lên mức trọn hảo siêu nhiên của tình yêu của Thiên Chúa.

1828. 1972

Việc thực hành đời sống luân lý, được sinh động nhờ đức mến, đem lại cho Ki-tô hữu sự tự do thiêng liêng của con cái Thiên Chúa. Người đó đứng trước Thiên Chúa, không còn như một kẻ nô lệ, trong sự sợ hãi tôi đòi, hay như người làm công ăn lương, nhưng như là người con đáp lại tình yêu của “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1 Ga 4,19):

“Nếu chúng ta xa lánh điều xấu vì sợ hình phạt, chúng ta sẽ sống trong tâm trạng của người nô lệ; nếu chạy theo sự cám dỗ của phần thưởng,… chúng ta sẽ giống như người làm thuê; nhưng nếu vì chính sự đáng kính và vì tình yêu của Đấng ban hành lề luật…, chúng ta mới thật sự sống trong tâm tình của con cái.”82

1829. 2540

Niềm vui, sự bình an và lòng thương xót là như hoa trái của đức mến. Đức mến đòi hỏi phải làm điều tốt và sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ; đức mến thì nhân hậu; nó khơi dậy sự tương thân tương ái, không tìm tư lợi, và quảng đại; đức mến là tình bằng hữu và sự hiệp thông:

“Yêu thương là sự hoàn tất của mọi công việc của chúng ta. Đó là mục đích: chúng ta chạy vì đó, chúng ta chạy đến đó; và khi tới đó, chúng ta sẽ yên nghỉ.”83

III. Các ân huệ và hoa trái của Chúa Thánh Thần (1830-1832)

1830. Đời sống luân lý của các Ki-tô hữu được nâng đỡ bởi các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Đó là những xu hướng thường xuyên giúp cho con người dễ dàng tuân theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.

1831. 1266, 1299

Bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần là: ơn khôn ngoan, ơn thông minh, ơn biết lo liệu, ơn can đảm, ơn hiểu biết, ơn đạo đức và ơn kính sợ Thiên Chúa. Các ơn này đạt tới sự sung mãn của chúng nơi Đức Ki-tô, Con Vua Đa-vít.84 Các ơn này hoàn thành các nhân đức của những người lãnh nhận chúng, và đưa các nhân đức đó tới mức trọn hảo. Các ơn này giúp các tín hữu dễ dàng vâng phục cách mau mắn những linh hứng của Thiên Chúa.

“Xin Thần Khí tốt lành của Chúa, dẫn con đi trên miền đất phẳng phiu” (Tv 143,10).

“Phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa… Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Ki-tô”â (Rm 8,14.17).

1832. 736

Các hoa trái của Thần Khí là những điều trọn hảo mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta, như hoa quả đầu mùa của vinh quang vĩnh cửu. Truyền thống Hội Thánh kể ra mười hai hoa trái: “Bác ái, hoan lạc, bình an, kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ, từ tâm, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, khiết tịnh” (Gl 5,22-23 vulg).

Tóm lược (1833-1845)

1833. Nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên trì để làm điều thiện.

1834. Các nhân đức nhân bản là những xu hướng thường xuyên và kiên trì của lý trí và ý chí nhằm điều khiển các hành vi của chúng ta, điều tiết các đam mê và hướng dẫn nếp sống chúng ta cho phù hợp với lý trí và đức tin. Các nhân đức đó có thể được quy tụ quanh bốn nhân đức trụ: khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ.

1835. Đức khôn ngoan giúp lý trí sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh phân định điều thiện đích thực và lựa chọn những phương tiện thích hợp để đạt tới điều thiện đó.

1836. Đức công bằng cốt tại một ý chí liên lỉ và vững chắc, quyết tâm trả lại những gì mình mắc nợ với Thiên Chúa và với người lân cận.

1837. Đức can đảm giúp chúng ta kiên trì và quyết tâm theo đuổi điều thiện giữa những khó khăn trong đời.

1838. Đức tiết độ giúp chúng ta điều tiết sức lôi cuốn của những thú vui và giữ sự chừng mực trong việc sử dụng các của cải trần thế.

1839. Các nhân đức luân lý tăng trưởng nhờ giáo dục, nhờ các hành vi chủ ý và nhờ luôn cố gắng kiên trì. Ân sủng của Thiên Chúa thanh luyện và nâng cao các nhân đức đó.

1840. Các nhân đức đối thần giúp các Ki-tô hữu sống trong tương quan với Ba Ngôi Chí Thánh. Các nhân đức đối thần có Thiên Chúa là nguồn gốc, động lực và đối tượng; Ngài là Thiên Chúa được nhận biết nhờ đức tin, được trông cậy và được yêu mến vì chính Ngài.

1841. Có ba nhân đức đối thần là: đức tin, đức cậy và đức mến.85 Ba nhân đức này định hình và mang lại sự sống cho tất cả các nhân đức luân lý.

1842. Nhờ đức tin, chúng ta tin vào Thiên Chúa và chúng ta tin tất cả những gì Ngài đã mặc khải cho chúng ta, và những gì Hội Thánh dạy chúng ta tin.

1843. Nhờ đức cậy, chúng ta khao khát và chờ mong với lòng tin tưởng vững chắc, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu và các ân sủng để xứng đáng hưởng sự sống đó.

1844. Nhờ đức mến, chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến người lân cận như chính mình. Đức mến là “mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14) và là mô thể của mọi nhân đức.

1845. Bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần được ban cho các Ki-tô hữu là ơn khôn ngoan, ơn thông minh, ơn biết lo liệu, ơn can đảm, ơn hiểu biết, ơn đạo đức và ơn kính sợ Thiên Chúa.


Chú thích

61 Thánh Grêgôriô thành Nyssa, De beatitudinibus, oratio 1: Gregorii Nysseni opera, ed. W. Jaeger, v. 7/2 (Leiden 1992) 82 (PG 44,1200).

62 X. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, II-II, q. 47, a. 2, sed contra: Ed. Leon. 8, 349.

63 X. Hc 5,2; 37,27-31.

64 Thánh Augustinô, De moribus Ecclesiae catholicae, 1, 25, 46: CSEL 90,51 (PL 32,1330-1331).

65 X. 2 Pr 1,4.

66 X. 1 Cr 13,13.

67 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 5: AAS 58 (1966) 819.

68 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 15: DS 1544.

69 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 42: AAS 57 (1965) 48; x. Id., Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 14: AAS 58 (1966) 940.

70 X. St 17,4-8; 22,1-18.

71 X. Rm 8,28-30.

72 X. Mt 7,21.

73 X. Mt 10,22; CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 13: DS 1541.

74 Thánh Tê-rê-sa Avila, Exclamaciones del alma a Dios, 15, 3: Biblioteca Mística Carmelitana, v. 4 (Burgos 1917) 290.

75 X. Ga 13,34.

76 X. Mt 22,40; Rm 13,8-10.

77 X. Mt 5,44.

78 X. Lc 10,27-37.

79 X. Mc 9,37.

80 X. Mt 25,40.45.

81 X. 1 Cr 13,1-3.

82 Thánh Ba-si-li-ô Cả, Regulae fusius tractatae, prol. 3: PG 31,896.

83 Thánh Augustinô, In epistulam Ioannis ad Parthos tractatus, 10, 4: PL 35,2056-2057.

84 X. Is 11,1-2.

85 X. 1 Cr 13,13.

 

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

I. Lòng thương xót và tội lỗi (1846-1848)

1846. 430, 1365

Tin Mừng là sự mặc khải, trong Chúa Giê-su Ki-tô, lòng thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân.86 Thiên thần loan báo điều này cho ông Giu-se: “Ông phải đặt tên con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Cũng chính điều đó được nói đến trong Thánh Thể, bí tích của Ơn cứu chuộc: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).

1847. 387, 1455

Thiên Chúa, “Đấng… đã tạo dựng bạn không cần có bạn, không công chính hóa bạn nếu không có bạn.”87 Việc đón nhận lòng thương xót của Ngài đòi hỏi chúng ta phải thú nhận tội lỗi của chúng ta: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính, sẽ tha tội cho chúng ta và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính” (1 Ga 1,8-9).

1848. 385, 1433

Cũng như Thánh Phao-lô quả quyết: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20). Nhưng để thực hiện công trình của mình, ân sủng phải vạch trần tội lỗi nhằm hối cải trái tim chúng ta và làm cho chúng ta “nên công chính để được sống đời đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (Rm 5,21). Cũng như thầy thuốc xem xét vết thương trước khi chữa lành nó, Thiên Chúa, nhờ Ngôi Lời của Ngài và Thần Khí của Ngài, chiếu ánh sáng sống động vào tội lỗi:

“Sự hối cải đòi buộc phải xác tín về tội lỗi; nó bao hàm một phán đoán từ bên trong của lương tâm, và điều này là bằng chứng về sự hành động của Thần chân lý trong hữu thể thẳm sâu của con người, và đồng thời cũng là khởi điểm của việc ban tặng mới của ân sủng và tình yêu: “Hãy lãnh nhận Chúa Thánh Thần.” Như vậy, trong việc xác tín về tội lỗi, chúng ta nhận ra một hồng ân kép: hồng ân về chân lý của lương tâm và hồng ân về sự chắc chắn của ơn cứu chuộc. Thần chân lý là Đấng an ủi.”88

II. Định nghĩa tội lỗi (1849-1851)

1849. 311, 1952

Tội là một lỗi phạm đối nghịch với lý trí, chân lý, lương tâm ngay thẳng; tội là sự thiếu vắng tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa và đối với người lân cận, vì sự quyến luyến lệch lạc với một số điều tốt đẹp nào đó. Tội làm tổn thương bản tính con người và vi phạm đến tình liên đới nhân loại. Tội được định nghĩa là “một hành vi, lời nói, hoặc ước muốn trái nghịch với Lề luật vĩnh cửu.”89

1850. 1440, 397, 615

Tội là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa: “Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài” (Tv 51,6). Tội chống lại tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta và đưa trái tim chúng ta lìa xa khỏi tình yêu đó. Cũng như tội đầu tiên, tội là một sự bất tuân, một sự nổi loạn chống Thiên Chúa vì ao ước muốn “sẽ nên như những vị thần biết điều thiện, điều ác” (St 3,5) để nhận biết và quyết định điều tốt và điều xấu. Như vậy, tội là “yêu mình đến mức khinh chê Thiên Chúa.”90 Vì sự tự tôn kiêu căng này, nên tội đối nghịch hẳn với sự tuân phục của Chúa Giê-su, sự tuân phục đó đã hoàn thành ơn cứu độ.91

1851. 598, 2746, 616

Chính trong cuộc khổ nạn, trong đó lòng thương xót của Đức Ki-tô sẽ chiến thắng tội lỗi, mà tội lỗi biểu lộ cách rõ nhất tính hung bạo và sự đa dạng của nó: sự cứng lòng tin, sự căm thù đến mức giết người, sự chối bỏ và nhạo báng của các thủ lãnh và của dân chúng, sự hèn nhát của quan Phi-la-tô, sự tàn bạo của binh lính, sự phản bội của ông Giu-đa quá cay đắng cho Chúa Giê-su, việc chối bỏ của ông Phê-rô và sự bỏ rơi của các môn đệ. Tuy nhiên, chính vào giờ của bóng tối và của Thủ lãnh thế gian này,92 cuộc hy tế của Đức Ki-tô đã âm thầm trở nên nguồn mạch, từ đó tuôn tràn cách không bao giờ cạn ơn tha thứ tội lỗi chúng ta.

III. Các tội lỗi khác nhau (1852-1853)

1852. Tội lỗi rất đa dạng. Thánh Kinh đưa ra nhiều danh sách các tội lỗi. Thư gửi tín hữu Galata đối chiếu các công việc của xác thịt với hoa trái của Thần Khí: “Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (Gl 5,19-21).93

1853. 1751, 2067, 368

Tội lỗi có thể được phân biệt theo đối tượng của chúng, cũng như đối với mọi hành vi nhân linh, hoặc theo các nhân đức mà chúng đối nghịch do thái quá hay do bất cập, hoặc theo các điều răn mà chúng vi phạm. Tội lỗi cũng có thể được phân loại theo tương quan của chúng với Thiên Chúa, với người lân cận hoặc với chính bản thân; chúng có thể được phân chia thành các tội về tinh thần và các tội về thể xác, hoặc tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và bỏ sót không làm. Cội rễ của tội là ở trong trái tim con người, trong ý chí tự do của họ, theo lời Chúa dạy: “Tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế” (Mt 15,19-20). Đức mến cũng cư ngụ trong trái tim con người, đó là nguyên lý của các công việc tốt lành và thanh sạch, nên tội cũng làm tổn thương đức mến.

IV. Mức độ nghiêm trọng của tội: Tội trọng và tội nhẹ (1854-1864)

1854. Phải đánh giá các tội theo mức độ nghiêm trọng của chúng. Sự phân biệt giữa tội trọng và tội nhẹ, như đã thấy trong Thánh Kinh, là khá phổ biến trong Truyền thống Hội Thánh.94 Kinh nghiệm của con người xác nhận điều này.

Bài này đã được xem 5709 lần!

Pages ( 64 of 96 ): <1 ... 6263 64 6566 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]