1855. Tội trọng phá hủy đức mến trong trái tim con người, do vi phạm nghiêm trọng Lề luật của Thiên Chúa; tội trọng làm cho con người quay lưng lại với Thiên Chúa là mục đích tối hậu của mình và vinh phúc của mình, khi dành ưu tiên cho một điều tốt thấp kém hơn Ngài.
Tội nhẹ vẫn còn để đức mến tồn tại, mặc dù có xúc phạm và gây tổn thương cho đức mến.
1856. 1446
Tội trọng đánh vào nguyên lý sống còn trong chúng ta, là đức mến, nên cần phải có một khởi đầu mới của lòng thương xót của Thiên Chúa và sự hối cải của trái tim, điều này được thực hiện một cách thông thường trong bí tích Giao Hòa:
“Khi… ý chí chiều theo một điều tự nó nghịch lại với đức mến, là nhân đức nhờ đó con người được quy hướng về mục đích tối hậu, thì do đối tượng của nó, tội này là tội trọng… hoặc nghịch với lòng mến Chúa, như lộng ngôn, bội thề, v.v… hoặc nghịch với lòng yêu người, như sát nhân, ngoại tình, v.v… Còn khi ý chí của tội nhân chiều theo một điều tự nó là một sự vô trật tự nào đó, nhưng không nghịch với tình yêu đối với Thiên Chúa và người lân cận, như nói năng bừa bãi, cười cợt lố lăng, v.v…, thì đó là những tội nhẹ.”95
1857. Để một tội là tội trọng, đòi phải có đồng thời ba điều kiện: Tội trọng là tội mà “đối tượng của nó là một chất liệu nghiêm trọng, và ngoài ra, tội đó được chấp nhận với đầy đủ ý thức, và với sự ưng thuận chủ ý.”96
1858. Chất liệu nghiêm trọng được xác định trong Mười Điều Răn, theo câu trả lời của Chúa Giê-su với người thanh niên giàu có: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ” (Mc 10,19). Tính nghiêm trọng của tội có thể là nhiều hơn hay ít hơn: tội giết người thì nghiêm trọng hơn tội trộm cắp. Cũng phải xét đến cả phẩm chất của những người bị xúc phạm: tội hành hung người thân thì tự nó nặng hơn tội hành hung người lạ.
1859. 1734
Tội trọng đòi phải có sự nhận thức đầy đủ và sự ưng thuận hoàn toàn. Điều này giả thiết phải có sự hiểu biết đặc tính tội lỗi của hành vi, hiểu biết sự đối nghịch của hành vi đối với Lề luật của Thiên Chúa. Tội trọng cũng bao hàm một sự ưng thuận chủ ý, đủ để là một lựa chọn cá vị. Sự làm bộ không biết và sự chai đá của trái tim97 không giảm thiểu, nhưng gia tăng tính cách cố ý của tội.
1860. 1735, 1767
Sự không hiểu biết ngoài ý muốn có thể giảm thiểu, và thậm chí xóa bỏ, tính cách quy tội của một lỗi phạm nặng. Nhưng không ai được coi là không biết những nguyên tắc của luật luân lý đã được ghi khắc trong lương tâm mỗi người. Những thúc đẩy của cảm giác, các đam mê, và cả các áp lực bên ngoài, hoặc những rối loạn do bệnh tật, cũng có thể giảm thiểu tính cách cố ý và tự do của lỗi phạm. Tội do ác tâm, do sự chủ ý lựa chọn điều xấu, là nghiêm trọng nhất.
1861. 1742, 1033
Tội trọng là một khả năng căn bản của sự tự do nhân loại, cũng như chính tình yêu. Tội trọng phá hủy đức mến, làm mất ơn thánh hóa, nghĩa là mất tình trạng ân sủng. Nếu tội trọng không được chuộc lại bằng việc thống hối và ơn tha thứ của Thiên Chúa, nó sẽ đưa tới việc bị loại ra khỏi Nước Thiên Chúa và cái chết muôn đời trong hỏa ngục, vì sự tự do của chúng ta có khả năng thực hiện những lựa chọn vĩnh viễn, không thể hồi lại được. Tuy nhiên, mặc dầu chúng ta có thể phán đoán một hành vi nào đó tự nó là một lỗi phạm nặng, chúng ta vẫn phải phó thác việc phán xét các nhân vị cho sự công bằng và lòng thương xót của Thiên Chúa.
1862. Người ta phạm tội nhẹ khi không tuân giữ những tiêu chuẩn được quy định bởi luật luân lý trong điều nhẹ, hay cả khi không tuân theo luật luân lý trong điều nặng, nhưng không có sự nhận thức đầy đủ hay không có sự ưng thuận hoàn toàn.
1863. 1394, 1472
Tội nhẹ làm suy yếu đức mến; nó diễn tả sự quyến luyến vô trật tự đối với của cải trần thế; nó ngăn cản sự tiến triển của linh hồn trong việc thực hành nhân đức và trong việc thực thi điều thiện luân lý; tội nhẹ đáng chịu những hình phạt tạm thời. Tội nhẹ có chủ ý và nhất định không thống hối khiến chúng ta dần dần đi đến chỗ phạm tội trọng. Tuy nhiên, tội nhẹ không phá vỡ giao ước với Thiên Chúa. Với ân sủng của Thiên Chúa, tội nhẹ có thể được con người sửa chữa lại. “Tội nhẹ không làm mất ơn thánh hóa, sự thân nghĩa với Thiên Chúa, đức mến và vinh phúc vĩnh cửu.”98
“Bao lâu còn mang thân xác, con người không thể không có ít là các tội nhẹ. Nhưng các tội mà chúng ta gọi là nhẹ, bạn chớ coi thường: nếu bạn coi là nhẹ khi bạn cân chúng, thì bạn hãy run sợ khi bạn đếm chúng. Nhiều vật nhỏ làm thành một khối lớn, nhiều giọt nước làm đầy một con sông, nhiều hạt lúa làm thành một đống lúa. Vậy thì còn hy vọng gì? Trước hết, hãy đi xưng tội…”99
1864. 2091, 1037
“Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha”100 (Mt 12,31). Lòng thương xót của Thiên Chúa không có giới hạn, nhưng ai cố tình từ chối đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa qua việc thống hối, thì người đó cũng khước từ ơn tha thứ tội lỗi cho mình và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban tặng.101 Sự cứng lòng như vậy có thể đưa tới chỗ không thống hối trong giờ sau hết và bị án phạt muôn đời.
V. Tội lỗi sinh sôi nảy nở (1865-1869)
1865. 401, 1768
Tội tạo nên xu hướng về tội; và do việc lặp đi lặp lại cùng một hành vi, sẽ sinh ra thói xấu. Từ đó phát xuất những nghiêng chiều lệch lạc làm mờ tối lương tâm và làm hư hỏng sự đánh giá cụ thể về điều tốt và điều xấu. Như vậy, tội lỗi có khuynh hướng sinh sôi nảy nở và mạnh thêm lên, nhưng nó không thể phá hủy tận căn cảm thức luân lý.
1866. 2539
Các thói xấu có thể được xếp loại dựa theo các nhân đức mà chúng đối nghịch, hay được quy vào các mối tội đầu như kinh nghiệm Ki-tô Giáo đã phân biệt, dựa theo thánh Gio-an Casianô102 và thánh Grêgôriô Cả.103 Chúng được gọi là các mối tội đầu bởi vì chúng sinh ra những tội khác, những thói xấu khác. Các mối tội đầu là: kiêu ngạo, hà tiện, ganh tị, nóng giận, dâm dục, mê ăn uống, làm biếng.
1867. 2268
Truyền thống dạy giáo lý cũng nhắc đến “các tội kêu thấu đến trời.” Kêu thấu đến trời là: máu của A-ben;104 tội của dân Sôđôma;105 tiếng than của dân bị áp bức ở Ai-cập;106 tiếng rên siết của người ngoại kiều, của các cô nhi và quả phụ;107 sự bất công về lương bổng.108
1868. 1736
Tội là một hành vi cá vị. Ngoài ra, chúng ta có trách nhiệm trong các tội do những người khác phạm, khi chúng ta cộng tác vào các tội đó, bằng cách:
– tham gia một cách trực tiếp và tự nguyện vào các tội đó;
– ra lệnh, xúi giục, khen ngợi hoặc tán thành những tội đó;
– không tố cáo hoặc không ngăn cản các tội đó, khi có bổn phận phải can ngăn;
– che chở những người làm điều xấu.
1869. 408, 1887
Như vậy, tội làm cho người ta trở thành đồng phạm với nhau, và làm cho dục vọng, bạo lực và bất công thống trị nơi họ. Tội tạo nên những hoàn cảnh xã hội và những cơ chế nghịch lại lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Các “cơ cấu tội ác” vừa là sự diễn tả vừa là hậu quả của các tội cá vị. Chúng xúi giục các nạn nhân của chúng đến lượt mình cũng làm điều xấu. Hiểu nghĩa loại suy, chúng làm thành “tội xã hội.”109
Tóm lược (1870-1876)
1870. “Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người” (Rm 11,32).
1871. Tội là “một hành vi, lời nói, hoặc ước muốn trái nghịch với Lề luật vĩnh cửu.”110 Tội là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa. Tội chống lại Thiên Chúa bằng sự bất tuân, đối nghịch với sự tuân phục của Chúa Giê-su.
1872. Tội là một hành vi đối nghịch với lý trí. Nó làm tổn thương bản tính con người và vi phạm đến tình liên đới nhân loại.
1873. Cội rễ của mọi tội lỗi là ở trong trái tim con người. Các loại tội và mức độ nghiêm trọng của chúng được xem xét chủ yếu theo đối tượng của chúng.
1874. Lựa chọn một cách có chủ ý, nghĩa là, biết rõ và tự nguyện, một sự việc đối nghịch với Lề luật thần linh và với mục đích tối hậu của con người một cách nghiêm trọng, đó là phạm tội trọng. Tội trọng phá hủy đức mến trong chúng ta, mà nếu không có đức mến, thì không thể được hưởng vinh phúc vĩnh cửu. Nếu không có sự thống hối, tội trọng kéo theo nó sự chết muôn đời.
1875. Tội nhẹ gây nên một xáo trộn luân lý, có thể sửa chữa lại được nhờ đức mến vẫn còn tồn tại trong chúng ta.
1876. Phạm đi phạm lại các tội, dù là các tội nhẹ, sẽ sinh ra những thói xấu, trong đó đặc biệt có các mối tội đầu.
Chú thích
86 X. Lc 15.
87 Thánh Augustinô, Sermo 169, 11, 13: PL 38,923.
88 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Dominum et vivificantem, 31: AAS 78 (1986) 843.
89 Thánh Augustinô, Contra Faustum manichaeum, 22, 27: CSEL 25,621 (PL 42,418); x. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, I-II, q. 71, a. 6: Ed. Leon. 7,8-9.
90 Thánh Augustinô, De civitate Dei, 14, 28: CSEL 40/2, 56 (PL 41,436).
91 X. Pl 2,6-9.
92 X. Ga 14,30.
93 X. Rm 1,28-32; 1 Cr 6,9-10; Ep 5,3-5; Cl 3,5-9; 1 Tm 1,9-10; 2 Tm 3,2-5.
94 X. 1 Ga 5,16-17.
95 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, I-II, q. 88, a. 2, c: Ed. Leon. 7, 135.
96 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Reconciliatio et paenitentia, 17: AAS 77 (1985) 221.
97 X. Mc 3,5-6; Lc 16,19-31.
98 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Reconciliatio et paenitentia, 17: AAS 77 (1985) 221.
99 Thánh Augustinô, In epistulam Ioannis ad Parthos tractatus, 1, 6: PL 35,1982.
100 X. Mc 3,29; Lc 12,10.
101 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Dominum et vivificantem, 46: AAS 78 (1986) 864-865.
102 X. Thánh Gio-an Cassianô, Conlatio, 5, 2: CSEL 13,121 (PL 49,611).
103 X. Thánh Grêgôriô Cả, Moralia in Iob, 31, 45, 87: CCL 143B, 1610 (PL 76,621).
104 X. St 4,10.
105 X. St 18,20; 19,13.
106 X. Xh 3,7-10.
107 X. Xh 22,20-22.
108 X. Đnl 24,14-15; Gc 5,4.
109 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Reconciliatio et paenitentia, 16: AAS 77 (1985) 216.
110 Thánh Augustinô, Contra Faustum manichaeum, 22, 27: CSEL 25,621 (PL 42,418).
CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)
1877. 355
Ơn gọi của nhân loại là biểu lộ hình ảnh của Thiên Chúa và được biến đổi thành hình ảnh Con Một của Chúa Cha. Ơn gọi này mang một hình thức cá vị, bởi vì mỗi người đều được kêu gọi tiến vào vinh phúc thần linh; ơn gọi này cũng liên quan đến tổng thể cộng đồng nhân loại.
Đề mục
Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)
Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)
Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)
Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)
I. Tính cách cộng đồng của ơn gọi nhân linh (1878-1885)
1878. 1702
Mọi người đều được kêu gọi đến một cùng đích chung, là chính Thiên Chúa. Có một sự tương tự nào đó giữa sự hiệp thông các Ngôi Vị Thiên Chúa với tình huynh đệ mà con người phải thiết lập với nhau trong chân lý và tình yêu.1 Tình yêu đối với người lân cận không thể tách rời khỏi tình yêu đối với Thiên Chúa.
1879. 1936
Nhân vị cần đời sống xã hội. Đời sống này không phải là một điều gì từ bên ngoài được thêm vào cho nhân vị, nhưng là một đòi hỏi của bản tính của nhân vị. Con người, nhờ sự trao đổi với những người khác, nhờ sự phục vụ lẫn nhau và nhờ đối thoại với anh em, phát triển mọi tài năng của mình; như vậy, họ đáp lại ơn gọi của mình.2
1880. 771
Xã hội là một tổng thể những cá vị được liên kết với nhau một cách hữu cơ theo một nguyên lý hợp nhất nào đó, vượt quá mỗi cá vị. Là một cộng đồng vừa hữu hình, vừa tinh thần, xã hội tồn tại trong thời gian: nó tiếp nhận quá khứ và chuẩn bị tương lai. Nhờ xã hội, mỗi người trở thành “người thừa tự”, lãnh nhận “các nén bạc” làm phong phú căn tính của mình và họ phải làm cho chúng tăng thêm hoa trái.3 Theo lẽ phải, mỗi người phải tận tâm với các cộng đồng mà mình là thành viên, và phải tôn trọng các người cầm quyền có nhiệm vụ mưu cầu công ích.
1881. 1929
Mỗi cộng đồng được định nghĩa bằng mục tiêu của mình và do đó, tuân theo những quy tắc đặc thù, nhưng “nguyên lý, chủ thể và mục đích của tất cả các định chế xã hội là, và phải là, nhân vị.”4
1882. 1913
Một số xã hội, như gia đình và cộng đồng dân sự, phù hợp một cách trực tiếp hơn với bản tính con người. Chúng là cần thiết cho con người. Để khuyến khích nhiều người tham gia vào đời sống xã hội, phải ủng hộ việc thành lập các hiệp hội và các tổ chức, được tự do lựa chọn, “về các vấn đề kinh tế, xã hội, về văn hóa và giải trí, về các sinh hoạt thể thao, về nghề nghiệp của các nghệ thuật khác nhau, về các vấn đề chính trị; trên bình diện quốc gia cũng như trên bình diện quốc tế.”5 “Việc xã hội hóa” này đồng thời diễn tả một xu hướng tự nhiên thúc đẩy con người hợp tác với nhau, để theo đuổi những mục tiêu vượt quá những khả năng cá nhân. Công cuộc này làm tăng thêm các phẩm chất của con người, nhất là óc sáng kiến và tinh thần trách nhiệm. Nó cũng giúp bảo đảm các quyền của con người.6
1883. 2431
Việc xã hội hóa cũng cho thấy những nguy cơ. Sự can thiệp quá đáng của Nhà Nước có thể đe dọa sự tự do và các sáng kiến cá vị. Giáo huấn của Hội Thánh đề ra một nguyên tắc được gọi nguyên tắc bổ trợ (subsidiarietatis principium): theo đó, “một tổ chức ở cấp cao hơn không được can thiệp vào sinh hoạt nội bộ của một tổ chức ở cấp dưới, và tước mất những nhiệm vụ riêng của cấp dưới, mà tốt hơn phải nâng đỡ tổ chức cấp dưới những khi cần, và trợ giúp để hành động của họ được phối hợp với các thành phần liên hệ khác, nhằm phục vụ công ích.”7
1884. 307, 302
Thiên Chúa không muốn giữ cho riêng mình việc thực thi mọi quyền hành. Ngài trao lại cho mỗi thụ tạo những nhiệm vụ mà nó có khả năng thực thi, theo những khả năng của bản tính riêng của mình. Cách cai quản này phải được bắt chước trong đời sống xã hội. Cách Thiên Chúa hành động trong việc cai quản trần gian chứng tỏ Ngài rất quan tâm đến sự tự do nhân loại, điều này phải gợi hứng khôn ngoan cho những người cai quản các cộng đồng nhân loại. Họ phải xử sự như những thừa tác viên của sự quan phòng của Thiên Chúa.
1885. Nguyên tắc bổ trợ đối nghịch với mọi hình thức duy tập thể. Nó vạch ra những giới hạn cho việc can thiệp của Nhà Nước. Nó tìm cách hòa hợp các tương quan giữa các cá nhân với các xã hội. Nó hướng tới việc thiết lập một trật tự quốc tế đích thực.
II. Sự hối cải và xã hội (1886-1889)
1886. 1779, 2500
Xã hội là cần thiết để ơn gọi nhân linh được thực hiện. Để đạt tới mục tiêu này, phải tôn trọng bậc thang đúng đắn của các giá trị, là “những gì thuộc vật chất và tự nhiên được đặt ở dưới những gì thuộc nội tâm và tinh thần.”8
“Vì vậy, xã hội của con người… trước hết phải được coi như một thực tại đặc biệt liên quan tới tâm hồn; nhờ xã hội, người ta thông chuyển cho nhau các kiến thức, trong ánh sáng của chân lý; người ta có thể khẳng định các quyền lợi và chu toàn các bổn phận; người ta khích lệ nhau tìm kiếm những điều thiện hảo cho tâm hồn; người ta chia sẻ cho nhau sự thưởng thức mọi vui thú lành mạnh; người ta luôn cố gắng trao cho người khác những gì tốt đẹp nhất của mình; người ta chăm chú học hỏi để những phong phú tinh thần của người khác trở thành của mình. Những điều tốt lành này vừa có ảnh hưởng, vừa hướng dẫn, tất cả những gì liên quan đến các học thuyết, các vấn đề kinh tế, các tổ chức xã hội, các trào lưu và thể chế chính trị, pháp chế, và sau cùng, các tổ chức khác, tất cả những gì thiết lập nên và không ngừng làm phát triển cộng đồng nhân loại từ bên ngoài.”9
1887. 909, 1869
Việc đảo lộn các phương tiện với các mục đích10 dẫn tới việc coi phương tiện như mục đích tối hậu, hay xem những cá vị chỉ là những phương tiện để đạt mục đích, điều này sinh ra những cơ cấu bất công “làm cho cách sống Ki-tô Giáo, phù hợp với các giới răn của Đấng Làm Luật tối thượng, trở nên khó khăn, hoặc hầu như là không thể.”11
1888. 407, 1430
Vì vậy, để đạt được những cải tổ xã hội thật sự giúp phục vụ con người, phải chạy đến với các khả năng tinh thần và luân lý của cá vị, và với sự đòi hỏi thường xuyên là sự hối cải nội tâm của cá vị. Việc ưu tiên cho sự hối cải trái tim không hề loại trừ, nhưng trái lại, còn bắt buộc đem lại những lành mạnh hóa thích hợp cho các cơ chế và điều kiện sống, khi các cơ chế và điều kiện sống đó đưa đến tội lỗi, để chúng trở thành phù hợp với các quy tắc của đức công bằng, không chống đối nhưng củng cố điều thiện hảo.12
1889. 1825
Không có sự trợ giúp của ân sủng, con người không biết “khám phá ra con đường, thường là nhỏ hẹp, giữa một bên là sự hèn nhát muốn nhượng bộ điều xấu và một bên là sức mạnh, tự lừa dối mình rằng mình có thể chiến thắng điều xấu, nhưng thật sự lại làm cho điều xấu nhân rộng thêm.”13 Con đường đó là con đường của đức mến, nghĩa là của lòng mến Chúa và yêu người. Đức mến là điều răn mang tính xã hội cao nhất. Đức mến tôn trọng người khác và các quyền lợi của họ. Đức mến đòi hỏi sự thực thi đức công bằng và chỉ có đức mến mới làm cho chúng ta có khả năng thực hiện điều đó. Đức mến gợi hứng cho một cuộc đời tự hiến: “Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống” (Lc 17,33).
Tóm lược (1890-1896)
1890. Có một sự tương tự nào đó giữa sự hiệp thông các Ngôi Vị Thiên Chúa với tình huynh đệ mà con người phải thiết lập với nhau.
1891. Nhân vị, để tự phát triển theo bản tính của mình, cần đời sống xã hội. Một số xã hội, như gia đình và cộng đồng dân sự, phù hợp một cách trực tiếp hơn với bản tính con người.
Bài này đã được xem 5614 lần!