GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

1938. 2437, 2317

Nhưng cũng có những sự bất bình đẳng bất công mà hàng triệu người nam và người nữ phải gánh chịu. Những bất bình đẳng đó rõ ràng nghịch lại với Tin Mừng:

“Phẩm giá bình đẳng của các cá vị đòi hỏi rằng điều kiện của đời sống phải trở nên nhân bản hơn và bình đẳng. Thật vậy, những bất bình đẳng thái quá về kinh tế và xã hội giữa những thành phần hay giữa những dân tộc của một gia đình nhân loại duy nhất là một cớ vấp phạm, và đi ngược với sự công bằng xã hội, công lý, phẩm giá của nhân vị và nền hòa bình xã hội và quốc tế.”46

III. Tình liên đới nhân loại (1939-1942)

1939. 2213, 360

Nguyên tắc liên đới, còn được gọi là nguyên tắc của “tình thân nghĩa” hay “bác ái xã hội”, là một đòi hỏi trực tiếp của tình huynh đệ nhân bản và Ki-tô Giáo.47

“Điều sai lầm đầu tiên, mà ngày nay đang phổ biến một cách rộng rãi và nguy hiểm, là người ta quên mất quy luật của tình liên đới nhân loại và của đức mến, quy luật này được thiết đặt và bắt buộc vừa do nguồn gốc chung của chúng ta và do sự bình đẳng của bản tính có lý trí của mọi người, dù thuộc bất cứ dân tộc nào, vừa do hy tế cứu chuộc Chúa Giê-su dâng lên Chúa Cha vĩnh cửu, nơi bàn thờ thập giá, vì nhân loại tội lỗi.”48

1940. 2402

Tình liên đới trước hết được biểu lộ trong việc phân phối của cải và việc trả lương lao động. Tình liên đới cũng bao hàm sự nỗ lực cho một trật tự xã hội công bằng hơn, trong đó những căng thẳng có thể được giải quyết tốt hơn và chúng có thể gặp được giải pháp liên kết dễ dàng hơn.

1941. 2317

Những vấn đề xã hội và kinh tế không thể được giải quyết nếu không có sự trợ giúp của mọi hình thức liên đới: liên đới giữa những người nghèo với nhau, giữa người giàu với người nghèo, giữa những người lao động với nhau, giữa chủ và thợ trong xí nghiệpï, liên đới giữa các quốc gia và giữa các dân tộc. Tình liên đới quốc tế là một đòi hỏi của trật tự luân lý. Hòa bình thế giới cũng một phần tùy thuộc tình liên đới này.

1942. 1887, 2632

Nhân đức liên đới vượt quá phạm vi các của cải vật chất. Khi phân phát các của cải tinh thần của đức tin, Hội Thánh đã giúp phát triển những của cải trần thế nhiều hơn nữa, Hội Thánh đã thường mở ra những con đường mới cho cuộc phát triển này. Như vậy, qua dòng thời gian, Lời Chúa đã được thực hiện: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài, còn tất cả những thứ kia, Ngài sẽ thêm cho” (Mt 6,33):

“Hai ngàn năm qua, trong linh hồn Hội Thánh, vẫn có một tâm tình sống động đã và đang thúc đẩy nhiều người sống đời bác ái đến mức anh hùng – các đan sĩ cày sâu cuốc bẫm, những nhà giải phóng nô lệ, những người chữa trị bệnh nhân, các sứ giả mang đức tin, văn minh và khoa học đến với mọi thế hệ và dân tộc, nhằm tạo ra những điều kiện xã hội có khả năng giúp mọi người có được một đời sống xứng đáng với phẩm giá con người và phẩm giá Ki-tô hữu.”49

Tóm lược (1943-1948)

1943. Xã hội bảo đảm công bằng xã hội, khi tạo điều kiện để các đoàn thể và mỗi cá nhân có được những gì họ có quyền hưởng.

1944. Tôn trọng nhân vị của những người khác là coi họ như “cái tôi thứ hai.” Sự tôn trọng nhân vị giả thiết việc tôn trọng các quyền căn bản phát xuất từ phẩm giá nội tại của nhân vị.

1945. Sự bình đẳng giữa con người với nhau dựa trên phẩm giá cá vị và các quyền phát xuất từ phẩm giá đó.

1946. Những khác biệt giữa các nhân vị nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng muốn chúng ta và người khác cần đến nhau. Những khác biệt ấy phải khơi dậy đức mến.

1947. Phẩm giá bình đẳng của các nhân vị đòi hỏi phải cố gắng giảm thiểu những bất bình đẳng thái quá về kinh tế và xã hội. Phẩm giá đó thúc đẩy việc hủy bỏ những bất bình đẳng bất công.

1948. Nhân đức liên đới là một nhân đức mang tính Ki-tô Giáo rất cao. Nó thực thi việc chia sẻ các của cải tinh thần hơn là chia sẻ các của cải vật chất.


Chú thích

38 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Sollicitudo rei socialis, 47: AAS 80 (1988) 581.

39 X. ĐGH Gio-an XXIII, Thông điệp Pacem in terris, 61: AAS 55 (1963) 274.

40 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 27: AAS 58 (1966) 1047.

41 X. Mt 5,43-44.

42 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 29: AAS 58 (1966) 1048-1049.

43 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 29: AAS 58 (1966) 1048.

44 X. Mt 25,14-30; Lc 19,11-27.

45 Thánh Catarina thành Siêna, Il dialogo della Divina provvidenza, 7: ed. G. Cavallini (Roma 1995) 23-24.

46 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 29: AAS 58 (1966) 1049.

47 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Sollicitudo rei socialis, 38-40: AAS 80 (1988) 564-569; Id., Thông điệp Centesimus annus, 10: AAS 83 (1991) 805-806.

48 ĐGH Pi-ô XII, Thông điệp Summi Pontificatus: AAS 31 (1939) 426.

49 ĐGH Pi-ô XII, Nuntius radiophonicus (1/6/1941): AAS 33 (1941) 204.

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

1949. Con người, được kêu gọi hưởng vinh phúc, nhưng bị tổn thương bởi tội lỗi, nên cần ơn cứu độ của Thiên Chúa. Sự trợ giúp thần linh đến với con người trong Đức Ki-tô, nhờ Lề luật để hướng dẫn họ, và trong ân sủng để nâng đỡ họ:

“Anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ. Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Ngài” (Pl 2,12-13).


Đề mục

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

1950. 53, 1719

Luật luân lý là công trình của đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Theo nghĩa Thánh Kinh, luật này có thể được định nghĩa như việc dạy dỗ của một người cha, như một khoa sư phạm của Thiên Chúa. Luật luân lý quy định cho con người những con đường, những quy tắc hành động dẫn đưa họ tới vinh phúc Thiên Chúa đã hứa; và ngăn cấm những con đường dẫn đến sự dữ khiến con người xa lìa Thiên Chúa và tình yêu của Ngài. Luật luân lý đồng thời vừa kiên định trong các mệnh lệnh của nó, vừa đáng mến trong các lời hứa của nó.

1951. 295, 306, 301

Luật là một quy tắc hành động được quyền bính có thẩm quyền công bố vì công ích. Luật luân lý giả thiết một trật tự hữu lý được thiết lập giữa các thụ tạo, vì lợi ích của chúng và nhằm vào mục đích của chúng, do quyền năng, sự khôn ngoan và sự tốt lành của Đấng Tạo Hóa. Mọi luật đều gặp được chân lý đầu tiên và tối hậu của mình trong Lề Luật vĩnh cửu. Luật được công bố và thiết lập bởi lý trí, xét như việc tham gia vào sự quan phòng của Thiên Chúa hằng sống, là Đấng Tạo hóa và Đấng Cứu Chuộc mọi người. “Luật được mệnh danh là chỉ thị của lý trí.”1

“Trong tất cả các sinh linh, chỉ con người được vinh dự, là chỉ con người xứng đáng đón nhận Lề luật từ Thiên Chúa, và như một sinh vật có lý trí, có khả năng để hiểu biết và nhận định, con người phải dùng chính sự tự do có lý trí mà suy phục Đấng đã bắt mọi sự suy phục mình.”2

1952. Có những cách diễn tả khác nhau của Luật luân lý, và thật sự, tất cả đều liên kết với nhau: Lề luật vĩnh cửu, là nguồn mạch của mọi luật trong Thiên Chúa; luật tự nhiên; Luật được mặc khải gồm Luật cũ và Luật mới hoặc Luật Tin Mừng; sau cùng là các dân luật và giáo luật.

1953. 578

Luật luân lý gặp được sự viên mãn và sự thống nhất của mình trong Đức Ki-tô. Chúa Giê-su Ki-tô là con đường của sự trọn hảo. Chính Người là mục đích của Lề luật, bởi vì chỉ có Người dạy dỗ và ban sự công chính của Thiên Chúa. “Cứu cánh của Lề luật là Đức Ki-tô, khiến bất cứ ai tin đều được nên công chính” (Rm 10,4).

I. Luật luân lý tự nhiên (1954-1960)

1954. 307, 1776

Con người tham dự vào sự khôn ngoan và sự tốt lành của Đấng Tạo Hóa, Đấng đã cho họ quyền làm chủ mọi hành vi của họ và khả năng tự hướng đến chân lý và điều thiện. Luật tự nhiên diễn tả cảm thức luân lý nguyên thủy, nhờ đó con người dùng lý trí mà phân định điều gì là tốt và điều gì là xấu, điều gì là chân lý và điều gì là dối trá:

“Luật tự nhiên đã được viết và được ghi khắc trong tâm hồn mỗi người, bởi vì chính lý trí con người ra lệnh hành động một cách ngay thẳng và tránh phạm tội. Nhưng quy định này của lý trí con người không thể có giá trị là luật, nếu nó không phải tiếng nói và thông dịch viên của một lý trí cao hơn, mà tâm trí và sự tự do của chúng ta đều phải suy phục.”3

1955. 1787, 396, 2070

Luật thần linh và tự nhiên4 vạch cho con người thấy con đường phải theo để thực thi điều tốt và đạt tới mục đích của mình. Luật tự nhiên nêu ra những mệnh lệnh đầu tiên và căn bản điều khiển đời sống luân lý. Luật tự nhiên có nền tảng là tâm tình khao khát và quy phục Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch và thẩm phán của mọi điều thiện hảo, và cũng có nền tảng là cảm thức về tha nhân như người bình đẳng với mình. Luật này được trình bày thành những điều răn chính trong Mười Điều Răn. Luật này được gọi là tự nhiên (naturalis), không phải vì liên quan đến những hữu thể không có lý trí, nhưng bởi vì lý trí công bố luật đó thuộc riêng về bản tính nhân linh (ad naturam humanam proprie pertinet):

“Các quy luật này được ghi chép ở đâu nếu không phải là trong quyển sách của thứ ánh sáng được gọi là chân lý? Đó là nơi mọi lề luật chính đáng được viết ra; từ đó được chuyển vào trái tim con người để họ thực thi sự công chính; luật này không phải di cư vào trái tim con người, nhưng như được in vào đó, cũng như một hình ảnh từ một chiếc nhẫn ấn trên sáp mà không rời bỏ chiếc nhẫn.”5

“Luật tự nhiên không gì khác là ánh sáng trí tuệ do Thiên Chúa đặt trong ta; nhờ đó, chúng ta nhận biết điều phải làm và điều phải tránh. Thiên Chúa đã ban ánh sáng này và luật này cho con người trong công trình tạo dựng.”6

1956. 2261

Hiện diện trong trái tim mỗi người và được thiết lập bởi lý trí, luật tự nhiên có giá trị phổ quát trong các mệnh lệnh của nó, và quyền bính của nó trải rộng đến tất cả mọi người. Luật này diễn tả phẩm giá của nhân vị và đặt nền tảng cho các quyền lợi và nghĩa vụ căn bản của nhân vị:

“Thật sự có một luật chân thật là lẽ phải, phù hợp với bản tính, được tuôn đổ trong mọi người, bền vững, vĩnh cửu, nó kêu gọi bổn phận phải thi hành, nó ngăn cản sự gian lận phải xa lánh… Thay luật này bằng một luật nghịch lại là phạm thánh, không được phép rút bỏ điều gì khỏi luật này, và cũng không thể hoàn toàn hủy bỏ luật này.”7

1957. Việc áp dụng luật tự nhiên rất đa dạng; có thể suy nghĩ để thích ứng với những điều kiện đa dạng của đời sống, tùy theo nơi chốn, thời đại và hoàn cảnh. Tuy nhiên, trong sự khác biệt của các nền văn hóa, luật tự nhiên vẫn là một quy tắc nối kết con người với nhau, ấn định những nguyên tắc chung, trừ những khác biệt không thể tránh khỏi.

1958. 2072

Luật tự nhiên là bất biến8 và trường tồn qua mọi thay đổi của lịch sử. Nó tồn tại qua những trào lưu tư tưởng và tập tục, và nâng đỡ sự phát triển của chúng. Những quy tắc diễn tả luật tự nhiên, về bản chất vẫn luôn có hiệu lực. Mặc dầu những nguyên lý của luật tự nhiên có bị chối bỏ, thì chính nó cũng không thể bị hủy diệt và không thể bị gạt ra khỏi trái tim con người. Luật tự nhiên luôn trỗi dậy trong đời sống của các cá nhân và các xã hội:

“Lạy Chúa, chắc chắn tội trộm cắp bị trừng phạt bởi Lề luật của Chúa, và bởi luật đã được ghi trong trái tim con người, luật mà chính sự gian ác cũng không xóa bỏ được.”9

1959. 1879

Luật tự nhiên, là công trình tốt nhất của Đấng Tạo Hóa, mang lại những nền tảng vững chắc, trên đó con người có thể xây dựng tòa nhà là các quy luật luân lý để hướng dẫn những chọn lựa của họ. Luật tự nhiên cũng đặt nền móng luân lý hết sức cần thiết để xây dựng cộng đồng nhân loại. Và sau cùng, nó cung cấp nền móng cần thiết cho luật dân sự, luật này được quy chiếu về luật tự nhiên, hoặc bằng cách suy nghĩ để rút ra những kết luận từ các nguyên tắc của luật tự nhiên, hoặc bằng những bổ sung mang tính chất thiết định và pháp lý.

1960. 2071, 37

Những mệnh lệnh của luật tự nhiên không được mọi người nhận thức một cách rõ ràng và trực tiếp. Trong điều kiện hiện tại, ân sủng và Mặc khải là cần thiết cho con người tội lỗi, để các chân lý tôn giáo và luân lý “có thể được nhận biết bởi mọi người một cách không chút trở ngại, một cách chắc chắn vững vàng, và không pha trộn một sai lầm nào.”10 Luật tự nhiên mang lại cho Lề luật được mặc khải và cho ân sủng một nền tảng, đã được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn và phù hợp với công cuộc của Thần Khí.

II. Luật cũ (1961-1964)

1961. 62

Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa và Đấng Cứu Độ của chúng ta, đã chọn Ít-ra-en như dân riêng của Ngài, và đã mặc khải cho họ Lề Luật của Ngài và như vậy, chuẩn bị cho cuộc Ngự đến của Đức Ki-tô. Luật Mô-sê diễn tả nhiều chân lý mà lý trí có thể đạt tới một cách tự nhiên. Người ta gặp được các chân lý này được công bố và được chứng thực trong Giao ước cứu độ.

1962. 2058

Luật cũ là cấp độ đầu tiên của Lề Luật được mặc khải. Các quy định luân lý của luật cũ được tóm lại trong Mười Điều Răn. Các mệnh lệnh của Mười Điều Răn đặt nền tảng cho ơn gọi của con người, vốn được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Các điều răn đó ngăn cấm những gì nghịch lại tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người lân cận, và quy định những đòi hỏi căn bản của tình yêu đó. Mười Điều Răn là ánh sáng được ban tặng cho lương tâm của mỗi người, giúp họ nhận ra lời kêu gọi của Thiên Chúa, và những con đường Ngài biểu lộ cho họ, và bảo vệ họ khỏi điều xấu:

“Thiên Chúa đã viết trên các bảng Luật, tất cả những gì mà con người không đọc nổi trong trái tim họ.”11

1963. 1610, 2542, 2515

Theo truyền thống Ki-tô Giáo, Lề Luật thì thánh thiện,12 thiêng liêng,13 và tốt lành,14 nhưng vẫn chưa trọn hảo. Như một nhà sư phạm,15 luật đó cho thấy điều phải làm, nhưng tự nó không ban sức mạnh, ân sủng của Thần Khí để người ta chu toàn nó. Vì không xóa được tội lỗi, nên luật cũ vẫn còn là luật của tình trạng nô lệ. Theo thánh Phao-lô, luật cũ có nhiệm vụ tố cáo và vạch trần tội lỗi, vì tội lỗi tạo ra thứ “luật của dục vọng”16 trong trái tim con người. Tuy nhiên, Lề Luật vẫn là chặng đầu tiên trên con đường dẫn đến Nước Trời. Nó chuẩn bị và giúp dân Chúa chọn và mỗi Ki-tô hữu sẵn sàng để hối cải và tin vào Thiên Chúa Cứu Độ. Với tính cách là lời của Thiên Chúa, Luật cũ đem lại đạo lý tồn tại đến muôn đời.

1964. 122, 1828

Luật cũ là một sự chuẩn bị nào đó cho Tin Mừng. “Lề Luật là môn sư phạm và lời tiên báo về các điều sẽ đến.”17 Luật cũ nói tiên tri và báo trước công trình giải phóng khỏi tội lỗi sẽ được hoàn thành với Đức Ki-tô, cung cấp cho Tân Ước những hình ảnh, “những tiên trưng”, những biểu tượng, để diễn tả đời sống theo Thần Khí. Cuối cùng, luật được kiện toàn bởi đạo lý của các sách khôn ngoan và các Tiên Tri, các vị này quy hướng luật cũ tới Giao ước Mới và Nước Trời.

“Dưới chế độ của Giao Ước Cũ, nhiều người đã có được đức mến và ân sủng của Chúa Thánh Thần và mong chờ những lời hứa thiêng liêng và vĩnh cửu. Và nhờ đó, họ đã được liên kết với Luật mới. Ngược lại, trong thời Giao Ước Mới, lại có những con người vẫn sống theo xác thịt, chưa đạt tới sự trọn hảo của Luật mới, vậy những người trong thời Giao Ước Mới này phải được dẫn tới các công việc nhân đức bằng sự sợ hãi các hình phạt, và bằng những lời hứa trần thế nào đó. Dù Luật cũ có dạy các điều răn của đức mến, nhưng Chúa Thánh Thần không được ban xuống nhờ luật đó, mà nhờ Chúa Thánh Thần, ‘Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta’ (Rm 5,5).”18

III. Luật mới hay Luật Tin Mừng (1965-1974)

1965. 459, 581, 715

Luật mới hay Luật Tin Mừng là sự trọn hảo nơi trần thế của Luật thần linh, tự nhiên và được mặc khải. Đây là công trình của Đức Ki-tô, được trình bày cách đặc biệt trong Bài giảng trên núi. Đây cũng là công trình của Chúa Thánh Thần, và nhờ Ngài, nó trở thành luật nội tâm của đức mến: “Ta hoàn thành một Giao Ước Mới với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa… Ta sẽ ghi vào lòng trí chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng còn chúng sẽ là Dân của Ta” (Dt 8,8.10).19

1966. 1999

Luật mới là ân sủng của Chúa Thánh Thần được ban cho các tín hữu nhờ tin vào Đức Ki-tô. Luật này hoạt động nhờ đức mến, và dùng Bài giảng trên núi của Chúa để dạy chúng ta điều phải làm, và dùng các bí tích để truyền thông ân sủng giúp chúng ta thực hiện điều đó:

“Nếu ai sốt sắng và bình tâm suy niệm bài giảng được Chúa chúng ta là Chúa Giê-su Ki-tô công bố trên núi, như chúng ta đọc trong sách Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, tôi nghĩ rằng người đó sẽ gặp được ở đó, vì là những lời răn dạy tốt nhất, một quy luật trọn hảo của đời sống Ki-tô hữu. Bài giảng này chứa đựng tất cả những mệnh lệnh mà nhờ đó đời sống Ki-tô hữu được nặn đúc nên.”20

1967. 577

Luật Tin Mừng hoàn thành,21 tinh luyện, vượt qua và kiện toàn Luật cũ. Trong các mối phúc, Luật mới hoàn thành các lời hứa thần linh khi nâng cao chúng lên và quy hướng chúng về “Nước Trời.” Luật Tin Mừng dành cho những ai sẵn sàng đón nhận niềm hy vọng mới này với lòng tin: những người nghèo, người khiêm tốn, người đau khổ, người có trái tim trong sạch, người bị bách hại vì Đức Ki-tô, như vậy Luật Tin Mừng phác họa những con đường chưa từng thấy của Nước Trời.

Bài này đã được xem 5677 lần!

Pages ( 67 of 96 ): <1 ... 6566 67 6869 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]