GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

1968. 129, 582

Luật Tin Mừng hoàn thành các mệnh lệnh của Lề Luật. Bài giảng của Chúa không hủy bỏ hay làm giảm giá trị các quy định luân lý của Luật cũ, nhưng rút ra những sức mạnh còn ẩn kín của chúng, và làm cho từ nơi chúng phát sinh ra những đòi hỏi mới: Luật Tin Mừng mặc khải toàn bộ chân lý thần linh và nhân linh của Luật cũ. Luật mới không thêm những mệnh lệnh mới từ bên ngoài, nhưng đi đến chỗ biến đổi gốc rễ của các hành vi, là trái tim, nơi con người chọn lựa giữa thanh sạch và ô uế,22 nơi hình thành đức tin, đức cậy, đức mến, và cùng với chúng, các nhân đức khác. Như vậy, Tin Mừng đưa Lề Luật tới sự viên mãn của nó nhờ bắt chước sự trọn hảo của Cha trên trời,23 nhờ việc tha thứ cho kẻ thù và cầu nguyện cho những người bách hại, giống như lòng quảng đại của Thiên Chúa.24

1969. 1434

Luật mới thực thi các hành vi tôn giáo: bố thí, cầu nguyện và chay tịnh, khi quy hướng các việc đó về “Chúa Cha, Đấng thấu suốt những gì kín đáo”, khác với những người muốn “được người ta thấy.”25 Lời cầu nguyện của Luật mới là kinh “Lạy Cha.”26

1970. 1696, 1789, 1823

Luật Tin Mừng bao hàm sự chọn lựa dứt khoát giữa “hai con đường”,27 và thực hiện các lời dạy của Chúa;28 Luật Tin Mừng được tóm lược trong khuôn vàng thước ngọc: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).29

Toàn bộ Luật Tin Mừng được chứa đựng trong điều răn mới của Chúa Giê-su,30 là chúng ta hãy yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta.31

1971. 1789

Phải thêm vào bài giảng của Chúa giáo lý luân lý trong giáo huấn của các Tông Đồ, như các đoạn Rm 12-15; 1 Cr 12-13; Cl 3-4; Ep 4-5; v.v… Giáo huấn này lưu truyền đạo lý của Chúa với quyền bính của các Tông Đồ, đặc biệt trong việc trình bày các nhân đức xuất phát từ đức tin vào Đức Ki-tô và là các nhân đức được đức mến, hồng ân chủ yếu của Chúa Thánh Thần, làm cho sinh động. “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ… thương mến nhau với tình huynh đệ… Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà” (Rm 12,9-13). Giáo lý này cũng dạy chúng ta giải quyết những vấn đề lương tâm dưới ánh sáng của mối tương quan giữa chúng ta với Đức Ki-tô và với Hội Thánh.32

1972. 782, 1828

Luật mới được gọi là luật của tình yêu, bởi vì dạy chúng ta hành động vì tình yêu mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ, hơn là vì sợ hãi; Luật mới được gọi là luật của ân sủng, bởi vì mang lại sức mạnh của ân sủng để hành động nhờ đức tin và các bí tích; Luật mới được gọi là luật của sự tự do,33 bởi vì giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc về nghi thức và pháp lý của luật cũ, khiến chúng ta sẵn sàng tự nguyện hành động theo sự thúc đẩy của đức mến, và sau hết làm cho chúng ta chuyển từ thân phận của một tôi tớ “không biết việc chủ làm”, sang tình trạng là bạn hữu của Đức Ki-tô “vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15), hoặc còn tới địa vị là một người con thừa tự nữa.34

1973. 2053, 915

Luật mới, ngoài các điều răn của mình, cũng bao gồm những lời khuyên Phúc Âm. Sự phân biệt của truyền thống giữa các điều răn của Thiên Chúa với các lời khuyên Phúc Âm được thiết lập liên quan đến đức mến, là sự trọn hảo của đời sống Ki-tô hữu. Các điều răn nhằm giúp tránh những gì không phù hợp với đức mến. Các lời khuyên có mục tiêu giúp tránh những gì, mặc dầu không đối nghịch, nhưng có thể ngăn cản sự phát triển của đức mến.35

1974. 2013

Các lời khuyên Phúc Âm biểu lộ sự sung mãn sống động của một đức mến không bao giờ hài lòng, vì đã không cho đi nhiều hơn nữa. Các lời khuyên chứng tỏ sự thúc đẩy của đức mến và khích động sự sẵn sàng thiêng liêng của chúng ta. Luật mới chủ yếu cốt tại các điều răn là mến Chúa yêu người. Các lời khuyên chỉ ra những con đường trực tiếp hơn, những phương tiện dễ dàng hơn và phải được thực thi tùy theo ơn gọi của mỗi người:

“Thiên Chúa không muốn mỗi người đều phải giữ tất cả các lời khuyên, nhưng chỉ những lời khuyên nào thích hợp với sự khác biệt của các nhân vị, các thời đại, các hoàn cảnh và các sức lực, như đức mến đòi hỏi; thật vậy, chính đức mến, như là nữ hoàng của mọi nhân đức, mọi giới răn, mọi lời khuyên, và cuối cùng, mọi lề luật và mọi hành động Ki-tô Giáo, nên đức mến ban cho tất cả những điều đó chỗ đứng, trật tự, thời gian và giá trị của chúng.”36

Tóm lược (1975-1986)

1975. Theo Thánh Kinh, luật là lời dạy dỗ của người cha là Thiên Chúa, quy định cho con người những con đường dẫn tới vinh phúc Thiên Chúa đã hứa và ngăn cấm những con đường của sự dữ.

1976. Luật là “một quy định nào đó của lý trí hướng về công ích, được công bố bởi người có trách nhiệm của cộng đồng.”37

1977. Đức Ki-tô là mục đích của Lề Luật.38 Chỉ có Người dạy dỗ và ban sự công chính của Thiên Chúa.

1978. Luật tự nhiên là sự tham dự của con người vào sự khôn ngoan và sự tốt lành của Thiên Chúa, vì con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Đấng Tạo hóa của mình. Luật tự nhiên diễn tả phẩm giá của nhân vị và đặt nền tảng cho các quyền lợi và nghĩa vụ căn bản của nhân vị.

1979. Luật tự nhiên là bất biến và trường tồn qua dòng lịch sử. Những quy tắc diễn tả luật tự nhiên, về bản chất vẫn luôn có hiệu lực. Luật tự nhiên là nền tảng cần thiết cho việc xây dựng các quy luật luân lý và cho luật dân sự.

1980. Luật cũ là cấp độ đầu tiên của Lề Luật được mặc khải. Những mệnh lệnh luân lý của Luật cũ được tóm lại trong Mười Điều Răn.

1981. Luật Mô-sê chứa đựng nhiều chân lý mà lý trí có thể đạt tới một cách tự nhiên. Thiên Chúa đã mặc khải các chân lý ấy bởi vì người ta đã không đọc nổi chúng trong trái tim của mình.

1982. Luật cũ là một sự chuẩn bị nào đó cho Tin Mừng.

1983. Luật mới là ân sủng của Chúa Thánh Thần được lãnh nhận nhờ đức tin vào Đức Ki-tô và hoạt động nhờ đức mến. Luật mới được diễn tả cách đặc biệt trong Bài giảng trên núi của Chúa và dùng các bí tích để truyền thông ân sủng cho chúng ta.

1984. Luật Tin Mừng hoàn thành, vượt qua và đưa Luật cũ đến sự trọn hảo của nó: kiện toàn các lời hứa của Luật cũ bằng các mối phúc của Nước Trời, kiện toàn các mệnh lệnh của Luật cũ bằng sự biến đổi gốc rễ của các hành vi, là trái tim.

1985. Luật mới là luật của tình yêu, luật của ân sủng, luật của sự tự do.

1986. Ngoài các điều răn, Luật mới còn chứa đựng những lời khuyên Phúc Âm. “Sự thánh thiện của Hội Thánh còn được khích lệ một cách đặc biệt bởi nhiều lời khuyên, mà trong Tin Mừng Chúa đã đề ra để các môn đệ của Người phải tuân giữ.”39


Chú thích

1 ĐGH Lê-ô XIII, Thông điệp Libertas praestantissimum: Leonis XIII Acta 8,218; x. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, I-II, q. 90, a. 1: Ed. Leon. 7, 149-150.

2 Tertullianô, Adversus Marcionem, 2, 4, 5: CCL 1,479 (PL 2,315).

3 ĐGH Lê-ô XIII, Thông điệp Libertas praestantissimum: Leonis XIII Acta 8,219.

4 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 89: AAS 58 (1966) 1111-1112.

5 Thánh Augustinô, De Trinitate, 14, 15, 21: CCL 50A, 451 (PL 42,1052).

6 Thánh Tô-ma A-qui-nô, In duo praecepta caritatis et in decem Legis praecepta expositio, c. 1: Opera omnia, v. 27 (Parisiis 1875) 144.

7 Marcô Tulliô Cicêrô, De re publica, 3, 22, 33: Scripta quae manserunt omnia, Bibliotheca Teubneriana fasc. 39, ed. K. Ziegler, (Leipzig 1969) 96.

8 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 10: AAS 58 (1966) 1033.

9 Thánh Augustinô, Confessiones 2, 4, 9: CCL 27,21 (PL 32,678).

10 CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 2: DS 3005; ĐGH Pi-ô XII, Thông điệp Humani generis: DS 3876.

11 Thánh Augustinô, Enarratio in Psalmum 57, 1: CCL 39,708 (PL 36,673).

12 X. Rm 7,12.

13 X. Rm 7,14.

14 X. Rm 7,16.

15 X. Gl 3,24.

16 X. Rm 7.

17 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 4, 15, 1: SC 100,548 (PG 7,1012).

18 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, I-II, q. 107, a. 1, ad 2: Ed. Leon. 7, 279.

19 X. Gr 31,31-34.

20 Thánh Augustinô, De sermone Domini in monte, 1, 1, 1: CCL 35,1-2 (PL 34,1229-1231).

21 X. Mt 5,17-19.

22 X. Mt 15,18-19.

23 X. Mt 5,48.

24 X. Mt 5,44.

25 X. Mt 6,1-6.16-18.

26 X. Mt 6,9-13.

27 X. Mt 7,13-14.

28 X. Mt 7,21-27.

29 X. Lc 6,31.

30 X. Ga 13,34.

31 X. Ga 15,12.

32 X. Rm 14; 1 Cr 5-10.

33 X. Gc 1,25; 2,12.

34 X. Gl 4,1-7.21-31; Rm 8,15-17.

35 X. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, II-II, q. 184, a. 3: Ed. Leon. 10, 453-454.

36 Thánh Phan-xi-cô Sa-lê, Traité de l’amour de Dieu, 8, 6: Oeuvres, v. 5 (Annecy 1894) 75.

37 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, I-II, q. 90, a. 4, c: Ed. Leon. 7, 152.

38 X. Rm 10,4.

39 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 42: AAS 57 (1965) 48.

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

I. Sự công chính hóa (1987-1995)

1987. 734

Ân sủng của Chúa Thánh Thần có sức mạnh công chính hóa chúng ta, nghĩa là, rửa chúng ta sạch tội lỗi, và truyền thông cho chúng ta sự công chính của Thiên Chúa nhờ đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô40 và nhờ bí tích Rửa Tội:41

“Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa trong Đức Ki-tô Giê-su” (Rm 6,8-11).

1988. 654, 460

Nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, chúng ta được tham dự vào cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô khi chết cho tội lỗi, và được tham dự vào sự phục sinh của Người khi được sinh vào đời sống mới; chúng ta là những chi thể của Thân Thể Người là Hội Thánh,42 là những ngành nho được ghép vào Cây nho là chính Đức Ki-tô:43

“Nhờ Thần Khí chúng ta được dự phần vào Thiên Chúa. Nhờ sự truyền thông Thần Khí, chúng ta được trở nên những người đồng phận với bản tính thần linh… Vì thế, những ai có Thần Khí ngự nơi mình, đều được thần linh hóa.”44

1989. 1427

Công trình đầu tiên của ân sủng của Chúa Thánh Thần là sự hối cải, việc này thực hiện sự công chính hóa theo lời rao giảng của Chúa Giê-su lúc khởi đầu Tin Mừng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17). Dưới tác động của ân sủng, con người quay về với Thiên Chúa và quay lưng lại với tội lỗi, và như vậy, đón nhận ơn tha thứ và sự công chính từ trên cao. “Sự công chính hóa… không chỉ là sự tha tội, nhưng còn là sự thánh hóa và canh tân con người nội tâm.”45

1990. 1446, 1733

Sự công chính hóa giải thoát con người khỏi tội lỗi là điều đối nghịch lại tình yêu của Thiên Chúa, và thanh tẩy trái tim họ khỏi tội lỗi. Sự công chính hóa là do sáng kiến của lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng ban ơn tha thứ. Nó giao hòa con người với Thiên Chúa. Nó giải thoát khỏi sự nô lệ tội lỗi và nó chữa lành.

1991. 1812

Sự công chính hóa đồng thời là việc đón nhận sự công chính của Thiên Chúa nhờ đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô. Ở đây, sự công chính cho thấy sự ngay thẳng của tình yêu của Thiên Chúa. Cùng với sự công chính hóa, đức tin, đức cậy và đức mến được đổ tràn vào trái tim chúng ta và sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa được ban cho chúng ta.

1992. 617, 1266, 294

Sự công chính hóa là công trạng nhờ cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô cho chúng ta, Người là Đấng đã tự hiến trên thập giá như của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa, và Máu Người trở nên dụng cụ đền tội vì tội lỗi của mọi người. Sự công chính hóa được ban nhờ Phép Rửa, là bí tích của đức tin. Nó làm cho chúng ta nên phù hợp với sự công chính của Thiên Chúa, Đấng nhờ quyền năng của lòng thương xót của Ngài làm cho chúng ta nên công chính tự bên trong. Sự công chính hóa có mục tiêu là vinh quang của Thiên Chúa và của Đức Ki-tô, và hồng ân của đời sống vĩnh cửu.46

“Nhưng ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Mô-sê. Điều này, sách Luật và các ngôn sứ làm chứng. Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai. Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do hồng ân Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Ki-tô Giê-su. Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ máu của Người cho những ai có lòng tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Ngài là Đấngï Công Chính. Trước kia, trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Ngài đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. Nhưng bây giờ, Ngài muốn cho thấy rằng Ngài vừa là Đấng Công Chính, vừa làm cho kẻ tin vào Đức Giê-su được nên công chính” (Rm 3,21-26).

1993. 2008, 2068

Sự công chính hóa thiết lập sự cộng tác giữa ân sủng của Thiên Chúa và sự tự do của con người. Về phía con người, sự công chính hóa được diễn tả trong sự ưng thuận của đức tin đối với lời Thiên Chúa, Đấng mời gọi con người hối cải, và trong sự cộng tác của đức mến với sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Đấng khởi xướng và gìn giữ sự ưng thuận đó:

“Khi Thiên Chúa đánh động trái tim con người nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, con người không phải là không làm gì khi đón nhận sự linh hứng này, vì họ có thể khước từ sự linh hứng đó; tuy nhiên, nếu không có ân sủng của Thiên Chúa, họ không thể đạt tới sự công chính trước mặt Ngài bằng ý chí tự do của mình.”47

1994. 312, 412

Sự công chính hóa là công trình vô cùng tuyệt hảo của tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ trong Đức Ki-tô Giê-su và được Chúa Thánh Thần ban tặng. Thánh Augustinô cho rằng “việc công chính hóa kẻ vô đạo là một công trình còn lớn lao hơn cả trời đất… Quả vậy, trời đất sẽ qua đi; còn ơn cứu độ và công chính hóa những người được tiền định sẽ tồn tại.”48 Thánh nhân còn cho rằng sự công chính hóa các kẻ tội lỗi vượt trên công trình tạo dựng các Thiên thần trong sự công chính, vì điều này làm chứng lòng thương xót lớn lao hơn của Thiên Chúa.

1995. 741

Chúa Thánh Thần là vị thầy nội tâm. Sự công chính hóa, khi làm cho “con người nội tâm” được sinh ra,49 bao hàm sự thánh hoá toàn thể con người:

“Trước đây anh em đã dùng chi thể của mình mà làm những điều ô uế và sự vô luân, để trở thành vô luân, thì nay anh em cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để trở nên thánh thiện… Nhưng giờ đây, anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi, mà trở thành nô lệ của Thiên Chúa; anh em thu được kết quả là được trở nên thánh thiện, và rốt cuộc được sống đời đời” (Rm 6,19.22).

II. Ân sủng (1996-2005)

1996. 153

Sự công chính hóa của chúng ta là do ân sủng của Thiên Chúa. Ân sủng là một hồng ân, một sự trợ giúp nhưng không mà Thiên Chúa ban cho chúng ta để chúng ta đáp lại lời kêu gọi của Ngài: trở thành con cái Thiên Chúa,50 làm nghĩa tử,51 tham dự vào bản tính Thiên Chúa,52 và vào sự sống muôn đời.53

1997. 375, 260

Ân sủng là sự tham dự vào sự sống Thiên Chúa, đưa chúng ta vào sự thân mật của sự sống Chúa Ba Ngôi: nhờ bí tích Rửa Tội, Ki-tô hữu tham dự vào ân sủng của Đức Ki-tô, Đầu của Thân Thể Người. Với tư cách là “nghĩa tử”, họ có thể gọi Thiên Chúa là “Cha”, trong sự kết hợp với Người Con Một. Họ lãnh nhận sự sống của Thần Khí, Đấng thổi hơi đức mến trên họ và là Đấng hình thành Hội Thánh.

1998. 1719

Ơn gọi vào sự sống vĩnh cửu này là một ơn siêu nhiên. Nó hoàn toàn tùy thuộc vào sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa, bởi vì chỉ mình Ngài có thể tự mặc khải và tự ban tặng chính mình. Ơn gọi đó vượt trên mọi tài năng của trí tuệ và sức mạnh của ý chí nhân linh, cũng như của mọi thụ tạo.54

1999. 1966

Ân sủng của Đức Ki-tô là một hồng ân nhưng không, Thiên Chúa ban cho chúng ta từ sự sống của Ngài, nhờ Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào linh hồn chúng ta để chữa trị nó khỏi tội lỗi và thánh hóa nó: Đó là ơn thánh hóa hay ơn thần linh hóa, được lãnh nhận trong bí tích Rửa Tội. Ân sủng này là nguồn mạch của công trình thánh hóa trong chúng ta:55

“Phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được giao hòa với Ngài” (2 Cr 5,17-18).

2000. Ơn thánh hóa là một hồng ân thường xuyên, một trạng thái bền vững và siêu nhiên, kiện toàn chính linh hồn để nó có khả năng sống với Thiên Chúa và hành động vì tình yêu của Ngài. Chúng ta phân biệt ơn thường sủng (gratia habitualis) là trạng thái trường tồn để sống và hành động theo lời kêu gọi của Thiên Chúa, và các ơn hiện sủng (gratiae actuales) là những can thiệp của Thiên Chúa, hoặc vào lúc khởi đầu cuộc hối cải, hoặc trong tiến trình của công cuộc thánh hóa.

2001. 490

Sự chuẩn bị của con người để đón nhận ân sủng đã là một công trình của ân sủng. Điều này là cần thiết để khơi dậy và nâng đỡ sự cộng tác của chúng ta vào việc công chính hóa nhờ đức tin, và vào việc thánh hóa nhờ đức mến. Thiên Chúa kiện toàn nơi chúng ta điều Ngài đã khởi sự, “vì Ngài khởi sự bằng cách tác động để chúng ta ước muốn, Ngài kiện toàn bằng cách cộng tác với những người đã muốn”:56

“Thật ra, khi chúng ta làm việc, là chúng ta cộng tác với Đấng đang làm việc, bởi vì lòng thương xót của Ngài đi bước trước đến với chúng ta. Ngài đi bước trước, để chúng ta được chữa lành, và Ngài dõi theo sau để sau khi được chữa lành, chúng ta nên cường tráng; Ngài đi bước trước, để chúng ta được kêu gọi, Ngài dõi theo sau để chúng ta được vinh quang; Ngài đi bước trước, để chúng ta sống một cách đạo đức, Ngài dõi theo sau để chúng ta được luôn luôn sống với Ngài, bởi vì không có Ngài, chúng ta không thể làm được gì.”57

Bài này đã được xem 5628 lần!

Pages ( 68 of 96 ): <1 ... 6667 68 6970 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]