GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

2002. 1742, 2550

Sáng kiến tự do của Thiên Chúa đòi hỏi sự đáp trả tự do của con người, bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, khi ban cho họ, cùng với sự tự do, khả năng nhận biết và yêu mến Ngài. Linh hồn chỉ tự nguyện mới có thể tiến vào sự hiệp thông của tình yêu. Thiên Chúa trực tiếp đụng chạm và đánh động trái tim con người. Ngài đặt trong con người sự khát vọng chân lý và điều thiện mà chỉ mình Ngài có thể làm thỏa mãn. Các lời hứa ban “sự sống đời đời” đáp lại khát vọng này, vượt quá mọi hy vọng:

“Lạy Chúa, sau những công trình rất tốt đẹp của Chúa, mặc dầu Chúa đã thanh thản làm nên chúng, Chúa đã nghỉ ngơi ngày thứ bảy, chính là để nói trước với chúng con qua tiếng nói trong Sách của Chúa rằng, sau những công trình rất tốt đẹp của chúng con mà chính Chúa đã ban cho chúng con, thì chúng con sẽ nghỉ ngơi trong ngày sa-bát của đời sống vĩnh cửu trong Chúa.”58

2003. 1108, 1127, 799-801

Ân sủng, trước hết và đặc biệt, là hồng ân của Thần Khí, Đấng công chính hóa và thánh hóa chúng ta. Nhưng ân sủng cũng gồm các hồng ân Thần Khí rộng ban cho chúng ta để liên kết chúng ta vào công trình của Ngài, để làm cho chúng ta có khả năng cộng tác vào công trình cứu độ những người khác và làm phát triển Thân Thể Đức Ki-tô là Hội Thánh. Đó là các ân sủng bí tích (gratiae sacramentales), là những hồng ân riêng cho những bí tích khác nhau. Ngoài ra, còn có các ân sủng đặc biệt (gratiae speciales) gọi là các đặc sủng (charismata) theo từ Hi lạp, mà thánh Phao-lô sử dụng, có nghĩa là đặc ân, hồng ân nhưng không, phúc lợi.59 Dù có đặc tính nào đi nữa, đôi khi là ngoại thường, như ơn làm phép lạ hay ơn nói tiếng lạ, các đặc sủng đều quy hướng về ơn thánh hóa và có mục tiêu là công ích của Hội Thánh. Các đặc sủng đều phục vụ đức mến là nhân đức xây dựng Hội Thánh.60

2004. Trong các ân sủng đặc biệt, phải kể đến các ơn chức phận (gratiae status) là những ơn được ban để thực thi các trách nhiệm của đời sống Ki-tô hữu và các thừa tác vụ trong Hội Thánh:

“Chúng ta có những đặc sủng khác nhau tùy theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy bảo, thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân phát, thì phải chân thành. Ai chủ tọa, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái, thì vui vẻ mà làm” (Rm 12,6-8).

2005. Ân sủng, vì là siêu nhiên, nên vượt tầm kinh nghiệm của chúng ta, và chỉ có thể được nhận biết bằng đức tin. Vì vậy, chúng ta không thể dựa trên tình cảm hay các việc làm của chúng ta để từ đó suy ra rằng chúng ta đã được công chính hóa hay được cứu độ.61 Tuy nhiên, theo lời Chúa phán: “Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai” (Mt 7,20), việc nhìn xem các hồng ân của Thiên Chúa, trong đời sống chúng ta và trong đời sống các Thánh, mang lại cho chúng ta một bảo chứng là ân sủng đang hoạt động trong chúng ta và khơi dậy nơi chúng ta một đức tin luôn vững mạnh hơn, và một thái độ nghèo khó đầy tín thác.

Một trong những minh họa đẹp nhất của thái độ này là câu trả lời của thánh nữ Gioanna xứ Arc (Jean d’Arc) trước một câu hỏi gài bẫy của các quan tòa của Giáo Hội: “Khi bị hỏi: cô có biết mình đang sống trong ân sủng của Thiên Chúa hay không, cô trả lời: ‘Nếu tôi chưa có, xin Chúa ban cho tôi; nếu tôi có rồi, xin Chúa thương gìn giữ tôi trong ân sủng Ngài’.”62

“Chúa được tôn vinh trong cộng đoàn các Thánh, và khi tuyên dương công trạng của các ngài, Chúa tuyên dương chính hồng ân của Chúa.”63

III. Công trạng (2006-2011)

2006. 1723, 1807

Từ “công trạng” thường được dùng để chỉ sự trả công mà cộng đồng hay xã hội đánh giá hành động của một thành viên của mình, xét như điều đó tốt hay xấu, đáng được thưởng hay bị phạt. Công trạng thuộc về nhân đức công bằng theo nguyên tắc về sự bình đẳng, là nguyên tắc chi phối nhân đức đó.

2007. 42

Trước mặt Thiên Chúa, theo nghĩa hẹp về quyền lợi, con người không có công trạng gì. Giữa Thiên Chúa và chúng ta có sự bất bình đẳng không thể đo lường, bởi vì chúng ta đón nhận mọi sự từ nơi Ngài, là Đấng Tạo hóa của chúng ta.

2008. 306, 155, 970

Công trạng của con người trước mặt Thiên Chúa trong đời sống Ki-tô hữu là do Thiên Chúa đã tự ý muốn liên kết con người với công trình của ân sủng của Ngài. Hành động đầy tình phụ tử của Thiên Chúa, bằng sự thúc đẩy của ân sủng, là trước hết, thứ đến mới là hành động tự do của con người trong sự cộng tác của họ, cho nên các công trạng của các việc tốt lành trước hết phải được quy về ân sủng của Thiên Chúa, rồi mới quy về tín hữu. Ngoài ra chính công trạng của con người phải quy về Thiên Chúa, bởi vì các việc tốt lành của họ đều diễn ra trong Đức Ki-tô, nhờ những khởi xướng và trợ giúp của Chúa Thánh Thần.

2009. 604

Nhờ ân sủng, ơn được làm nghĩa tử cho chúng ta được tham dự vào bản tính Thiên Chúa, có thể đem lại cho chúng ta một công trạng đích thực theo đức công chính nhưng không của Thiên Chúa. Đây là một quyền có được nhờ ân sủng, quyền sung mãn của tình yêu, làm cho chúng ta nên những người “đồng thừa tự” với Đức Ki-tô và xứng đáng được hưởng phần gia tài đã được hứa ban là đời sống vĩnh cửu.64 Công trạng do các việc tốt lành của chúng ta là những hồng ân của lòng nhân hậu của Thiên Chúa.65 “Ân sủng đã được ban trước, giờ đây nợ được trả… Các hồng ân của Thiên Chúa là những công trạng của bạn.”66

2010. 1998

Vì sự khởi xướng trong lãnh vực ân sủng thuộc về Thiên Chúa, nên không ai có thể có công trạng gì để lãnh nhận ân sủng đầu tiên nơi cội nguồn việc hối cải, ơn tha thứ và sự công chính hóa. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần và của đức mến, chúng ta mới có thể lập công cho bản thân và cho tha nhân để được những ân sủng hữu ích cho việc thánh hóa, cho việc gia tăng ân sủng và đức mến của chúng ta, cũng như để đạt tới sự sống vĩnh cửu. Theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể lập công để đáng lãnh nhận những lợi ích trần thế, như sức khoẻ, tình bằng hữu. Những ân sủng và hồng ân này là đối tượng của kinh nguyện Ki-tô Giáo. Việc cầu nguyện đem lại ân sủng cần thiết cho chúng ta để các hành động có được công trạng.

2011. 492, 1460

Tình yêu Đức Ki-tô trong chúng ta là nguồn mạch mọi công trạng của chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Ân sủng, khi kết hợp chúng ta với Đức Ki-tô bằng một tình yêu năng động, bảo đảm phẩm tính siêu nhiên của các hành vi của chúng ta và do đó, bảo đảm công trạng của các việc đó trước mặt Thiên Chúa cũng như trước mặt người ta. Các Thánh luôn ý thức mãnh liệt rằng các công trạng của các ngài hoàn toàn là ân sủng:

“Sau cuộc lưu đày trần thế, con hy vọng sẽ được về vui hưởng Chúa nơi Quê hương, nhưng con không muốn thu thập công trạng để được lên trời, con muốn làm việc chỉ vì tình yêu Chúa mà thôi… Lúc cuộc đời xế bóng, con sẽ đến trước mặt Chúa với đôi bàn tay trắng, vì, lạy Chúa, con không xin Chúa đếm các việc con làm. Mọi sự công chính của chúng con đều mang tì vết trước mắt Chúa. Vì vậy, con muốn được mặc lấy sự công chính của chính Chúa và đón nhận từ tình yêu Chúa phần sở hữu muôn đời là chính Chúa…”.67

IV. Sự thánh thiện Ki-tô Giáo (2012-2016)

2012. 459

“Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Ngài… Vì những ai Ngài đã biết từ trước, thì Ngài đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, để Con của Ngài làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Ngài cũng kêu gọi; những ai Ngài đã kêu gọi, thì Ngài cũng làm cho nên công chính; những ai Ngài đã làm cho nên công chính, thì Ngài cũng cho hưởng phúc vinh quang” (Rm 8,28-30).

2013. 915, 2545, 825

“Tất cả các Ki-tô hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Ki-tô hữu và đến sự trọn hảo của đức mến.”68 Mọi người đều được kêu gọi nên thánh: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48):

“Để đạt được sự trọn hảo đó, các tín hữu phải sử dụng những sức mạnh mình đã lãnh nhận tùy theo mức độ Đức Ki-tô đã ban, để… khi thực hành thánh ý Chúa Cha trong mọi sự, họ sẽ hiến thân với hết tâm hồn cho vinh quang Thiên Chúa và cho việc phục vụ người lân cận. Như vậy, sự thánh thiện của dân Thiên Chúa sẽ trổ sinh hoa trái dồi dào, như đã thấy một cách rõ ràng trong lịch sử Hội Thánh qua đời sống của bao vị thánh.”69

2014. Sự tiến bộ về đời sống thiêng liêng hướng đến sự kết hợp ngày càng mật thiết hơn với Đức Ki-tô. Sự kết hợp này được gọi là “thần bí” (“mystica”), bởi vì tham dự vào mầu nhiệm Đức Ki-tô nhờ các bí tích – “các mầu nhiệm thánh” (“sancta mysteria”) -, và trong Người, tham dự vào mầu nhiệm của Ba Ngôi Chí Thánh. Thiên Chúa kêu gọi tất cả chúng ta đến sự kết hợp mật thiết này với Ngài, mặc dù những ân sủng đặc biệt và những dấu chỉ ngoại thường của đời sống thần bí này chỉ được ban cho một số người, để biểu lộ hồng ân nhưng không được ban cho mọi người.

2015. 407, 2725, 1438

Con đường của sự trọn hảo phải đi qua thập giá. Không thể có sự thánh thiện, nếu không có sự từ bỏ và cuộc chiến đấu thiêng liêng.70 Sự tiến bộ về đời sống thiêng liêng bao hàm sự khổ chế và hy sinh hãm mình, là những điều từng bước dẫn tới việc sống trong bình an và hoan lạc của các mối phúc:

“Ai trèo lên, người đó không bao giờ ngừng từ bắt đầu này tiếp sau bắt đầu kia, qua những bắt đầu không chấm dứt. Người đó không bao giờ ngừng ao ước điều người đó đã biết rồi.”71

2016. 162, 1821, 1274

Các con cái của Mẹ thánh chúng ta là Hội Thánh, hy vọng một cách chính đáng được Thiên Chúa là Cha ban ơn bền đỗ đến cùng và sự trả công vì những công việc tốt lành đã được thực hiện nhờ ân sủng của Ngài trong sự hiệp thông với Chúa Giê-su.72 Các tín hữu, tuân giữ cùng một quy luật sống, được tham dự vào “niềm hy vọng hồng phúc” của những người mà lòng thương xót của Thiên Chúa đã quy tụ trong “Thành thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang” (Kh 21,2).

Tóm lược (2017-2029)

2017. Ân sủng của Chúa Thánh Thần đem lại cho chúng ta sự công chính của Thiên Chúa. Khi kết hợp chúng ta, nhờ đức tin và Phép Rửa, vào cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Đức Ki-tô, Thần Khí làm cho chúng ta được tham dự vào sự sống của Người.

2018. Cũng như sự hối cải, sự công chính hóa có hai phương diện. Dưới tác động của ân sủng, con người quay về với Thiên Chúa và quay lưng lại với tội lỗi, và như vậy, đón nhận ơn tha thứ và sự công chính từ trên cao.

2019. Sự công chính hóa bao hàm sự tha thứ tội lỗi, sự thánh hóa và sự canh tân con người nội tâm.

2020. Sự công chính hóa là công trạng nhờ cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô cho chúng ta. Nó được ban cho chúng ta nhờ Phép Rửa. Nó làm cho chúng ta nên phù hợp với sự công chính của Thiên Chúa, Đấng làm cho chúng ta nên công chính. Sự công chính hóa có mục tiêu là vinh quang của Thiên Chúa và của Đức Ki-tô, và hồng ân của đời sống vĩnh cửu. Nó là công trình hết sức tuyệt vời của lòng thương xót của Thiên Chúa.

2021. Ân sủng là sự trợ giúp Thiên Chúa ban cho chúng ta, để chúng ta đáp lại lời kêu gọi là trở thành nghĩa tử của Ngài. Ân sủng đưa chúng ta vào sự thân mật của sự sống Chúa Ba Ngôi.

2022. Trong công trình của ân sủng, sáng kiến của Thiên Chúa đi bước trước, chuẩn bị và khơi dậy lời đáp trả tự do của con người. Ân sủng đáp ứng những khát vọng sâu xa của sự tự do của con người; ân sủng kêu gọi sự tự do đó cộng tác với mình, và kiện toàn sự tự do đó.

2023. Ơn thánh hóa là một hồng ân nhưng không, Thiên Chúa ban cho chúng ta từ sự sống của Ngài, nhờ Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào linh hồn chúng ta, để chữa trị nó khỏi tội lỗi và thánh hóa nó.

2024. Ơn thánh hóa làm cho chúng ta nên “đẹp lòng Thiên Chúa.” Còn các đặc sủng, là những ân sủng đặc biệt của Chúa Thánh Thần, quy về ơn thánh hóa, và có mục tiêu là công ích của Hội Thánh. Thiên Chúa cũng hành động qua nhiều ơn hiện sủng, được phân biệt với ơn thường sủng trường tồn trong chúng ta.

2025. Trước mặt Thiên Chúa chúng ta không có công trạng gì, nếu Thiên Chúa đã không có một kế hoạch tự do, muốn liên kết con người với công trình của ân sủng của Ngài. Công trạng trước hết thuộc về ân sủng của Thiên Chúa, thứ đến mới thuộc về sự cộng tác của con người. Công trạng của con người quy về Thiên Chúa.

2026. Vì chúng ta được làm nghĩa tử, ân sủng của Chúa Thánh Thần có thể đem lại cho chúng ta một công trạng đích thực theo đức công chính nhưng không của Thiên Chúa. Tình yêu trong chúng ta là nguồn mạch chủ yếu của mọi công trạng trước mặt Thiên Chúa.

2027. Không ai có thể có công trạng gì để lãnh nhận ân sủng đầu tiên là cội nguồn của việc hối cải. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể lập công cho bản thân và cho tha nhân để được mọi ân sủng hữu ích nhằm đạt tới sự sống vĩnh cửu, cũng như những lợi ích trần thế cần thiết.

2028. “Tất cả các Ki-tô hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Ki-tô hữu và đến sự trọn hảo của đức mến.”73 “Sự trọn hảo Ki-tô Giáo chỉ có một giới hạn, đó là không có giới hạn nào cả.”74

2029. “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).


Chú thích

40 X. Rm 3,22.

41 X. Rm 6,3-4.

42 X. 1 Cr 12.

43 X. Ga 15,1-4.

44 Thánh A-tha-na-si-ô thành A-lê-xan-ri-a, Epistula ad Serapionem, 1, 24: PG 26,585-588.

45 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 7: DS 1528.

46 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 7: DS 1529.

47 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 5: DS 1525.

48 Thánh Augustinô, In Iohannis evangelium tractatus, 72,3: CCL 36,508 (PL 35,1823).

49 X. Rm 7,22; Ep 3,16.

50 X. Ga 1,12-18.

51 X. Rm 8,14-17.

52 X. 2 Pr 1,3-4.

53 X. Ga 17,3.

54 X. 1 Cr 2,7-9.

55 X. Ga 4,14; 7,38-39.

56 Thánh Augustinô, De gratia et libero arbitrio, 17, 33: PL 44,901.

57 Thánh Augustinô, De natura et gratia, 31, 35: CSEL 49,258-259 (PL 44,264).

58 Thánh Augustinô, Confessiones, 13, 36, 51: CCL 27,272 (PL 32,868).

59 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 12: AAS 57 (1965) 16-17.

60 X. 1 Cr 12.

61 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 9: DS 1533-15324.

62 Thánh Gioana xứ Arc [Jean d’Arc], Dictum: Procès de condamnation, ed. P. Tisset (Paris 1960) 62.

63 Kinh tiền tụng lễ Các Thánh ISách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 428; x. Thánh Augustinô, “Tiến sĩ về ân sủng”, Enarratio in Psalmum 102, 7: CCL 40,1457 (PL 37,1321).

64 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 16: DS 1546.

65 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 16: DS 1548.

66 Thánh Augustinô, Sermo 298, 4-5: SPM 1,98-99 (PL 38,1367).

67 Thánh Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, Acte d’offrande à l’Amour miséricordieux: Récréations pieuses – Prières (Paris 1992) 514-515.

68 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 40: AAS 57 (1965) 45.

69 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 40: AAS 57 (1965) 45.

70 X. 2 Tm 4.

71 Thánh Grêgôriô thành Nyssa, In Canticum homilia 8: Gregorii Nysseni opera, ed. W. Jaeger-H. Langerbeck, v. 6 (Leiden 1960) 247 (PG 44,941).

72 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, canon 26: DS 1576.

73 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium 40: AAS 57 (1965).

74 Thánh Grêgôriô thành Nyssa, De vita Moysis, 1, 5: ed. M. Simonetti (Vicenza 1984) 10 (PG 44,300).

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

2030. 828, 1172

Chính trong Hội Thánh, trong sự hiệp thông với tất cả những người đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội mà Ki-tô hữu chu toàn ơn gọi của mình. Từ Hội Thánh, họ đón nhận Lời Thiên Chúa chứa đựng các đạo lý của “Luật Đức Ki-tô”75. Từ Hội Thánh, họ lãnh nhận ân sủng của các bí tích nâng đỡ họ trên “đường”. Từ Hội Thánh, họ học mẫu gương của sự thánh thiện; họ nhận ra hình ảnh và nguồn mạch của sự thánh thiện này nơi Đức Trinh Nữ Ma-ri-a rất thánh, phân định ra sự thánh thiện này qua chứng từ chân chính của những người đang sống theo sự thánh thiện; họ khám phá sự thánh thiện này trong truyền thống linh đạo và trong lịch sử lâu dài của các Thánh, những vị đã đi trước họ và phụng vụ đang mừng kính các ngài theo chu kỳ các Thánh.

2031. 1368

Đời sống luân lý là một việc phụng tự thiêng liêng. “Chúng ta dâng hiến thân xác mình làm của lễ sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa”,76 trong Thân Thể Đức Ki-tô mà chúng ta họp thành, và trong sự hiệp thông với hiến lễ Thánh Thể của Người. Trong phụng vụ và trong việc cử hành các bí tích, lời cầu nguyện và đạo lý được kết hợp với ân sủng của Đức Ki-tô, để soi sáng và nuôi dưỡng cách hành động của Ki-tô hữu. Cũng như toàn bộ đời sống Ki-tô hữu, đời sống luân lý gặp được nguồn mạch và tột đỉnh của mình trong Hy lễ Thánh Thể.

I. Đời sống luân lý và Huấn quyền của Hội Thánh (2032-2040) [85-87; 888-892]

2032. 2246, 2420

Hội Thánh, là “cột trụ và điểm tựa của chân lý” (1 Tm 3,15), “đã lãnh nhận từ các Tông Đồ mệnh lệnh long trọng của Đức Ki-tô là phải loan báo chân lý cứu độ.”77 “Hội Thánh phải loan báo các nguyên tắc luân lý trong mọi thời và ở mọi nơi, kể cả những nguyên tắc về trật tự xã hội, cũng như phải phán đoán về tất cả các thực tại nhân sinh, trong mức độ mà các quyền căn bản của con người hay việc cứu độ của các linh hồn đòi hỏi.”78

2033. 84

Huấn quyền của các mục tử Hội Thánh về vấn đề luân lý thường được thực thi trong việc dạy giáo lý và giảng dạy, với sự trợ giúp của các công trình của các nhà thần học và các tác giả linh đạo. Như vậy, từ đời nọ đến đời kia, dưới sự hướng dẫn và cảnh giác của các mục tử, “kho tàng” luân lý Ki-tô Giáo được lưu truyền, kho tàng đó là một tổng hợp đặc trưng các quy luật, các mệnh lệnh và các nhân đức phát xuất từ đức tin vào Đức Ki-tô và được ban sự sống bởi đức mến. Một cách theo truyền thống, việc dạy giáo lý này lấy Mười Điều Răn, cùng với Tín biểu và kinh Lạy Cha, làm nền tảng, vì Mười Điều Răn loan báo những nguyên tắc của đời sống luân lý, hữu hiệu cho tất cả mọi người.

Bài này đã được xem 5653 lần!

Pages ( 69 of 96 ): <1 ... 6768 69 7071 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]