GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

V. Thánh Kinh trong đời sống Hội Thánh (131-133)

131. “Trong Lời Thiên Chúa, có năng lực lớn lao có thể nâng đỡ và ban sinh lực cho Hội Thánh, còn đối với con cái Hội Thánh thì thành sức mạnh cho đức tin, lương thực cho linh hồn, nguồn sống tinh tuyền và trường tồn cho đời sống thiêng liêng.”111 Vì vậy, “lối vào Thánh Kinh cần phải được rộng mở cho các Ki-tô hữu.”112

132. 94

“Việc nghiên cứu Thánh Kinh phải là như linh hồn của khoa Thần học. Nhờ chính lời Thánh Kinh này, thừa tác vụ Lời Chúa, gồm có việc giảng thuyết của các vị chủ chăn, việc dạy giáo lý và toàn thể giáo huấn Ki-tô Giáo, trong đó bài diễn giảng trong phụng vụ phải chiếm ưu thế, được nuôi dưỡng lành mạnh và tăng cường sinh lực thánh thiện.”113

133. 2653, 1792

Hội Thánh “nhiệt liệt và đặc biệt khuyến khích mọi Ki-tô hữu… học được ‘mối lợi tuyệt vời, là được biết Chúa Giê-su Ki-tô’ (Pl 3,8) nhờ năng đọc Sách Thánh. ‘Thật vậy, không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Ki-tô’.”114

Tóm lược (134-141)

134. Toàn bộ Thánh Kinh là một cuốn sách duy nhất, và cuốn sách duy nhất ấy chính là Chúa Ki-tô, “bởi vì toàn bộ Thánh Kinh nói về Chúa Ki-tô và toàn bộ Thánh Kinh được hoàn tất trong Chúa Ki-tô.”115

135. “Thánh Kinh chứa đựng Lời Thiên Chúa và vì được linh hứng nên thật sự là Lời Thiên Chúa.”116

136. Thiên Chúa là Tác giả của Thánh Kinh vì Ngài linh hứng các tác giả phàm nhân; chính Ngài hành động trong họ và nhờ họ. Như vậy, Ngài bảo đảm rằng các tác phẩm của họ giảng dạy chân lý cứu độ một cách không sai lầm.117

137. Việc giải thích các Sách Thánh đã được linh hứng trước hết phải đạt đến điều Thiên Chúa muốn mặc khải qua các thánh sử, để cứu độ chúng ta. Điều gì đến từ Chúa Thánh Thần, chỉ được hiểu cách đầy đủ nhờ tác động của Chúa Thánh Thần.118

138. Hội Thánh lãnh nhận và tôn kính 46 sách của Cựu Ước và 27 sách của Tân Ước, với tính cách là những sách được linh hứng.

139. Bốn sách Tin Mừng giữ một vị trí trung tâm, vì Chúa Ki-tô Giê-su là tâm điểm của các sách đó.

140. Tính thống nhất của hai Giao Ước bắt nguồn từ sự duy nhất của kế hoạch và mặc khải của Thiên Chúa. Cựu Ước chuẩn bị cho Tân Ước, còn Tân Ước làm hoàn thành Cựu Ước; cảø hai soi sáng cho nhau, cả hai đều thật sự là Lời Thiên Chúa.

141. “Hội Thánh đã luôn tôn kính Thánh Kinh như đã tôn kính chính Thân Thể [Mình Thánh] Chúa”:119 cả hai nuôi dưỡng và chi phối toàn bộ đời sống Ki-tô hữu. “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105).120


Chú thích

68 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 13: AAS 58 (1966) 824.

69 X. Dt 1,1-3.

70 Thánh Augustinô, Enarratio in Psalmum 103, 4, 1: CCL 40,1521 (PL 37,1378).

71 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 21: AAS 58 (1966) 827.

72 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 24: AAS 58 (1966) 829.

73 X. 1 Tx 2,13.

74 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 21: AAS 58 (1966) 827-828.

75 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 11: AAS 58 (1966) 822-823.

76 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 11: AAS 58 (1966) 823.

77 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 11: AAS 58 (1966) 823.

78 Thánh Bê-na-đô Clairvaux, Homilia super “Missus est”, 4, 11: Opera, ed. J. Leclercq-H. Rochais, v. 4 (Romae 1966) 57.

79 X. Lc 24,45.

80 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 823.

81 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 823.

82 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 824.

83 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 824.

84 X. Lc 24,25-27.44-46.

85 X. Tv 22,15.

86 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Expositio in Psalmos, 21, 11: Opera omnia, v. 18 (Parisiis 1876) 350.

87 X. Thánh Hi-la-ri-ô, Liber ad Constantium Imperatorem 9: CSEL 65,204 (PL 10,570); Thánh Giêrônimô, Commentarius in epistulam ad Galatas 1, 1, 11-12: PL 26,347.

88 Ôrigiênê, Homiliae in Leviticum, 5, 5: SC 286,228 (PG 12,454).

89 X. Rm 12,6.

90 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, I, q.1, a.10, ad 1: Ed. Leon. 4, 25.

91 X. 1 Cr 10,2.

92 X. Dt 3-4,11.

93 X. Kh 21,1-22,5.

94 Augustinô de Dacia, Rotulus pugillaris I: ed. A.Walz: Angelicum 6 (1929) 256.

95 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 824.

96 Thánh Augustinô, Contra epistulam Manichaei quam vocant fundamenti, 5, 6: CSEL 25,197 (PL 42,176).

97 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 8: AAS 58 (1966) 821.

98 X. Decretum Damasi: DS 179-180; CĐ Florentinô, Decretum pro lacobitis: DS 1334-1336; CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 4a, Decretum de Libris Sacris et de traditionibus recipiendis: DS 1501-1504.

99 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 14: AAS 58 (1966) 825.

100 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 15: AAS 58 (1966) 825.

101 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 17: AAS 58 (1966) 826.

102 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 20: AAS 58 (1966) 827.

103 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 18: AAS 58 (1966) 826.

104 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 19: AAS 58 (1966) 826-827.

105 Thánh Xê-daia Juniô, Epistula ad Richildam et Radegundem: SC 345,480.

106 Thánh Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, Manuscrit A, 83v: Manuscrits autobiographiques (Paris 1992) 268.

107 X. 1 Cr 10,6.11; Dt 10,1; 1 Pr 3,21.

108 X. Mc 12,29-31.

109 X. 1 Cr 5,6-8; 10,1-11.

110 Thánh Augustinô, Quaestiones in Heptateucum, 2, 73; CCL 33,106 (PL 34,623); X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 16: AAS 58 (1966) 825.

111 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 21: AAS 58 (1966) 828.

112 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 22: AAS 58 (1966) 828.

113 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 24: AAS 58 (1966) 829.

114 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 25: AAS 58 (1966) 829; X. Thánh Hiêrônimô, Commentarii in Isaiam, Lời Tựa: CCL 73,1 (PL 24,17).

115 Hugo de Sancto Victore, De Arca Noe, 2, 8: PL 176,642; x. Ibid. 2, 9: PL 176,642-643.

116 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 24: AAS 58 (1966) 829.

117 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 11: AAS 58 (1966) 822-823.

118 X. Ôrigiênê, Homiliae in Exodum, 4, 5: SC 321,128 (PG 12,320).

119 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 21: AAS 58 (1966) 827.

120 X. Is 50,4.

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

142. 1102

Qua mặc khải, “Thiên Chúa vô hình, do tình thương chan hòa của Ngài, đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu và liên lạc với họ để mời gọi họ và chấp nhận cho họ đi vào cuộc sống của chính Ngài.”1 Đức tin là sự đáp lại thích đáng đối với lời mời gọi ấy.

143. 2087

Bằng đức tin, con người đem trí khôn và ý chí của mình quy phục Thiên Chúa cách trọn vẹn. Con người đặt trọn bản thân quy thuận Thiên Chúa, Đấng mặc khải.2 Thánh Kinh gọi việc đáp lại này của con người đối với Thiên Chúa, Đấng mặc khải, là “sự vâng phục của đức tin.”3


Đề mục

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)


Chú thích

1 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 2: AAS 58 (1966) 818.

2 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 5: AAS 58 (1966) 819.

3 X. Rm 1,5; 16,26.

Mục 1: Tôi tin (144-165)

I. Sự vâng phục của đức tin (144-149)

144. Vâng phục (ob-audire: nghe, lắng nghe) bằng đức tin là tự nguyện quy thuận lời đã nghe, bởi vì chân lý của lời đó được Thiên Chúa là chính Chân Lý, bảo đảm. Thánh Kinh trưng dẫn tổ phụ Áp-ra-ham như gương mẫu của sự vâng phục đó. Còn Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là người thể hiện sự vâng phục đó cách hoàn hảo.

Ông Áp-ra-ham – “tổ phụ của tất cả những người tin” (145-147)

145. 59, 2570, 489

Thư gửi tín hữu Do-thái, trong bài tán dương đức tin của các bậc tổ tiên, đã đặc biệt nhấn mạnh đến đức tin của ông Áp-ra-ham: “Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu” (Dt 11,8).4 Nhờ đức tin, ông đã sống như kẻ mới nhập cư và người lữ hành trong Đất hứa.5 Nhờ đức tin, bà Xa-ra đã thụ thai người con của lời hứa. Cuối cùng, nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã dâng hiến con một mình làm hy lễ.6

146. 1819

Như vậy, ông Áp-ra-ham đã thực hiện điều Thư gửi tín hữu Do-thái định nghĩa về đức tin: “Đức tin là bảo đảm cho những điều hy vọng, là bằng chứng của những điều ta không thấy” (Dt 11,1). “Ông Áp-ra-ham đã tin Thiên Chúa, và vì thế, được kể là người công chính” (Rm 4,3).7 “Nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh” (Rm 4,20), ông Áp-ra-ham trở thành “tổ phụ của tất cả những người tin” (Rm 4,11.18).8

147. 839

Cựu Ước rất phong phú về các chứng từ của đức tin ấy. Thư gửi tín hữu Do-thái tán tụng đức tin gương mẫu, “nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám” (Dt 11,2.39). Tuy nhiên, “Thiên Chúa đã trù liệu cho chúng ta một phần phúc tốt hơn”: đó là ơn được tin vào Con của Ngài, là “Chúa Giê-su, Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 11,40; 12,2).

Đức Ma-ri-a – “Phúc thay người đã tin” (148-149)

148. 494, 2617, 506

Đức Trinh Nữ Ma-ri-a thể hiện cách trọn hảo sự vâng phục của đức tin. Trong đức tin, Đức Ma-ri-a đón nhận lời sứ thần Gáp-ri-en loan báo và đoan hứa, vì ngài tin rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37),9 và ngài bày tỏ lòng quy phục: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Bà Êlisabét chào Đức Ma-ri-a bằng những lời này: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em” (Lc 1,45). Chính vì đức tin này mà Đức Ma-ri-a sẽ được mọi đời khen là diễm phúc.10

149. 969, 507, 829

Trong suốt cuộc đời của Đức Ma-ri-a, và cho đến cuộc thử thách tột bậc,11 khi Chúa Giê-su Con ngài chết trên thập giá, đức tin của ngài đã không hề lay chuyển. Đức Ma-ri-a không ngừng tin rằng lời Chúa sẽ “được thực hiện.” Vì vậy, Hội Thánh tôn kính Đức Ma-ri-a là người đã thể hiện đức tin một cách tinh tuyền nhất.

II. “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2 Tm 1,12) (150-152)

Tin vào một mình Thiên Chúa (150)

150. 222

Tin trước hết là gắn bó bản thân con người với Thiên Chúa, đồng thời và không thể tách biệt, là tự nguyện chấp nhận tất cả chân lý được Thiên Chúa mặc khải. Bởi vừa là gắn bó bản thân với Thiên Chúa, vừa là chấp nhận chân lý do Thiên Chúa mặc khải, nên đức tin Ki-tô Giáo khác với việc tin một người phàm. Thật là tốt đẹp và phải đạo khi hoàn toàn tin tưởng ở Thiên Chúa và tuyệt đối tin điều Ngài đã nói. Thật vô ích và lầm lạc khi đặt một niềm tin như vậy vào một thụ tạo.12

Tin vào Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa (151)

151. 424

Đối với Ki-tô hữu, tin vào Thiên Chúa không thể tách rời khỏi việc tin vào Đấng Ngài đã sai đến, tức là Con chí ái của Ngài, đẹp lòng Ngài mọi đàng.13 Thiên Chúa đã dạy chúng ta phải nghe lời Con của Ngài.14 Chính Chúa Giê-su đã nói với các môn đệ Người: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,l). Chúng ta có thể tin vào Chúa Giê-su Ki-tô, vì chính Người là Thiên Chúa, là Ngôi Lời nhập thể: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Bởi vì Người “đã thấy Chúa Cha” (Ga 6,46), nên chỉ một mình Người biết Chúa Cha và có thẩm quyền mặc khải Chúa Cha cho chúng ta.15

Tin vào Chúa Thánh Thần (152)

152. 243, 683, 232

Không thể tin vào Chúa Giê-su Ki-tô mà không thông phần vào Thần Khí của Người. Chính Chúa Thánh Thần mặc khải cho loài người biết Chúa Giê-su là ai. “Không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giê-su là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (l Cr 12,3). “Thật vậy, Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa… Không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa” (1 Cr 2,10-11). Chỉ mình Thiên Chúa mới biết một cách trọn vẹn về Thiên Chúa. Chúng ta tin vào Chúa Thánh Thần, vì Ngài là Thiên Chúa.

Hội Thánh không ngừng tuyên xưng đức tin vào một Thiên Chúa duy nhất, là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

III. Những đặc tính của đức tin (153-165)

Đức tin là một ân sủng (153)

153. 552, 1814, 1996, 2606

Khi thánh Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giê-su nói với ông rằng không phải huyết nhục mặc khải cho ông điều ấy, nhưng là Cha của Người, “Đấng ngự trên trời” (Mt 16,17).16

Đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, là một nhân đức siêu nhiên do Thiên Chúa tuôn ban. “Để có được đức tin này, cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần: Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí và cho ‘mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý’.”17

Đức tin là một hành vi nhân linh (154-155)

154. 1749, 2126

Chỉ có thể tin nhờ ân sủng và những trợ giúp nội tâm của Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, tin vẫn thật sự là một hành vi nhân linh. Tin vào Thiên Chúa và gắn bó với những chân lý do Ngài mặc khải không đi ngược với tự do và trí khôn con người. Ngay trong các giao tiếp giữa người với người, không có gì đi ngược với phẩm giá của chúng ta khi chúng ta tin những gì người khác nói về bản thân họ hoặc ý định của họ, và khi tin vào những lời hứa của họ (chẳng hạn những cam kết hôn nhân), và như vậy, con người có thể hiệp thông với nhau. Do đó, càng không có gì đi ngược với phẩm giá của chúng ta, khi chúng ta “bằng đức tin, dâng lên Thiên Chúa, Đấng mặc khải, sự quy phục trọn vẹn của lý trí và ý chí”,18 và như vậy, chúng ta được hiệp thông thân mật với Ngài.

155. 2008

Trong đức tin, lý trí và ý chí con người cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa: “Tin là một hành vi của lý trí chấp nhận chân lý của Thiên Chúa theo lệnh của ý chí được Thiên Chúa tác động nhờ ân sủng.”19

Đức tin và lý trí (156-159)

156. 1063, 2465, 548, 812

Động lực khiến chúng ta tin không phải là vì các chân lý được mặc khải tỏ hiện là xác thật và có thể hiểu được đối với ánh sáng của lý trí tự nhiên của chúng ta. Chúng ta tin “vì uy quyền của chính Thiên Chúa, Đấng mặc khải, Đấng không thể sai lầm cũng như không thể lừa dối chúng ta.”20 “Tuy nhiên, để đức tin của chúng ta ‘quy phục phù hợp với lý trí’, Thiên Chúa đã muốn có những bằng chứng bên ngoài về mặc khải của Ngài kèm theo sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần.”21 Chẳng hạn, các phép lạ của Đức Ki-tô và của các Thánh,22 các lời tiên tri, sự phát triển và thánh thiện cũng như sự phong phú và vững bền của Hội Thánh, đó “là những dấu chỉ chắc chắn nhất của mặc khải của Thiên Chúa, những dấu chỉ đó phù hợp với lý trí của mọi người”,23 đó là những động lực khiến chúng ta tin, những động lực đó cho thấy “sự ưng thuận của đức tin hoàn toàn không phải là một hành vi mù quáng của tâm trí.”24

157. 2088

Đức tin thì chắc chắn, chắc chắn hơn mọi hiểu biết phàm nhân, bởi vì đức tin dựa trên chính Lời của Thiên Chúa, Đấng không thể nói dối. Các chân lý được mặc khải có thể bị coi là tối tăm đối với cả lý trí lẫn kinh nghiệm phàm nhân, nhưng “sự chắc chắn nhờ ánh sáng của Thiên Chúa thì lớn hơn sự chắc chắn nhờ ánh sáng của lý trí tự nhiên.”25 “Mười ngàn nỗi khó khăn không làm thành một sự hồ nghi.”26

158. 2705, 1827, 90, 2518

“Đức tin tìm hiểu biết”:27 gắn liền với đức tin là việc người tin muốn biết rõ hơn về Đấng mình đã tin và hiểu rõ hơn về điều Ngài đã mặc khải; về phần mình, một hiểu biết sâu xa hơn sẽ dẫn đến một đức tin lớn lao hơn, luôn thấm đượm tình yêu hơn. Ơn đức tin mở “con mắt của trái tim” (Ep 1,18) để có một hiểu biết sống động về các nội dung của mặc khải, nghĩa là về toàn bộ kế hoạch của Thiên Chúa và các mầu nhiệm đức tin, tương quan giữa các mầu nhiệm với nhau và với Đức Ki-tô, tâm điểm của các mầu nhiệm được mặc khải. “Và để người ta hiểu biết mặc khải sâu xa thêm mãi…, Chúa Thánh Thần không ngừng ban các hồng ân mà kiện toàn đức tin.”28 Đúng như câu châm ngôn của thánh Augustinô: “Bạn hãy hiểu để tin; bạn hãy tin để hiểu.”29

159. 283, 2293

Đức tin và khoa học. “Mặc dù đức tin vượt trên lý trí, nhưng không bao giờ có thể có mâu thuẫn thật sự giữa đức tin và lý trí: vì cùng một Thiên Chúa, Đấng mặc khải các mầu nhiệm và tuôn đổ đức tin, cũng là Đấng ban ánh sáng lý trí cho tâm hồn con người, mà Thiên Chúa không thể tự phủ nhận chính mình Ngài, cũng như điều chân thật không bao giờ nghịch lại điều chân thật.”30 “Bởi vậy, việc nghiên cứu có phương pháp trong mọi ngành, nếu được tiến hành một cách thật sự khoa học và theo đúng các chuẩn mực luân lý, sẽ không bao giờ thật sự đối nghịch với đức tin, bởi vì các thực tại trần thế và các thực tại đức tin đều có nguồn gốc là bởi cùng một Thiên Chúa. Hơn nữa, ai khiêm tốn và kiên nhẫn cố gắng nghiên cứu những bí ẩn của các sự vật, thì mặc dù họ không ý thức, họ vẫn như được dẫn đưa bởi bàn tay của Thiên Chúa, Đấng đang nâng đỡ vạn vật, Ngài làm cho hiện hữu những gì đang hiện hữu.”31

Đức tin là một hành vi tự do (160)

160. 1738, 2106, 616

Để việc đáp lại của đức tin là một hành vi nhân linh, “con người phải đáp lại Thiên Chúa bằng việc tin một cách tự nguyện. Do đó, không được cưỡng ép ai phải chấp nhận đức tin trái với ý muốn của họ. Thật vậy, tự bản chất của nó, đức tin là một hành vi tự nguyện.”32 “Thiên Chúa mời gọi con người phục vụ Ngài trong tinh thần và chân lý; con người phải theo lương tâm đáp lại lời mời gọi ấy, nhưng không bị ép buộc… Điều này ta thấy rõ ràng nhất nơi Đức Ki-tô.”33 Thật vậy, Đức Ki-tô mời gọi người ta tin và hối cải, nhưng Người không hề cưỡng ép ai. “Người đã làm chứng cho chân lý, nhưng không muốn dùng sức mạnh để áp đặt chân lý đối với những kẻ chống đối. Nước Người… tăng triển bằng tình yêu, tình yêu đó là Đức Ki-tô đã chịu giương cao trên thập giá để lôi kéo người ta đến với mình.”34

Sự cần thiết của đức tin (161)

161. 432, 1257, 846

Tin vào Chúa Giê-su Ki-tô và Đấng đã sai Người đến cứu độ chúng ta, là điều cần thiết để đạt được ơn cứu độ đó.35 “Mà ‘không có đức tin, thì không thể đẹp lòng Thiên Chúa’ (Dt 11,6) và cũng không thể đạt tới chức vị làm con cái Thiên Chúa, nên không ai được công chính hóa nếu không có đức tin, và không ai đạt tới cuộc sống muôn đời nếu không ‘bền chí đến cùng’ (Mt 10,22; 24,13) trong đức tin.”36

Sự kiên trì trong đức tin (162)

162. 2089, 1037, 2016, 2573, 2849

Đức tin là một hồng ân nhưng không, Thiên Chúa ban tặng cho con người. Chúng ta có thể đánh mất hồng ân vô giá đó. Thánh Phao-lô cảnh giác ông Timôthê về nguy cơ này: “Đây là chỉ thị tôi trao cho anh… để anh dựa vào đó mà chiến đấu trong cuộc chiến cao đẹp này, với đức tin và lương tâm ngay thẳng. Một số người đã vứt bỏ lương tâm ngay thẳng đó, nên đức tin của họ đã bị chết chìm” (1 Tm 1,18-19). Để sống, lớn lên và kiên trì đến cùng trong đức tin, chúng ta phải nuôi dưỡng đức tin bằng Lời Thiên Chúa; chúng ta phải cầu xin Chúa gia tăng đức tin cho chúng ta;37 đức tin ấy phải hành động “nhờ đức mến” (Gl 5,6),38 phải được nâng đỡ bằng đức cậy39 và phải đâm rễ trong đức tin của Hội Thánh.

Đức tin – khởi đầu của sự sống muôn đời (163-165)

163. 1088

Đức tin làm cho chúng ta như được nếm trước niềm hoan lạc và ánh sáng của ơn hưởng kiến hồng phúc (visio beatifica), ơn đó là mục đích của cuộc lữ hành trần gian này của chúng ta. Lúc đó chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên Chúa “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12), và “Ngài thế nào chúng ta sẽ thấy Ngài như vậy” (1 Ga 3,2). Vì vậy, đức tin đã là khởi đầu của sự sống muôn đời:

“Khi chúng ta chiêm ngưỡng, như nhìn trong gương, ân sủng là những điều thiện hảo còn xa vời được hứa ban cho chúng ta, mà nhờ đức tin chúng ta mong chờ được hưởng, thì y như những điều đó đã có đây rồi.”40

164. 2846, 309, 1502, 1006

Tuy nhiên, hiện giờ chúng ta “tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa” (2 Cr 5,7), và chúng ta nhận biết Thiên Chúa “lờ mờ như trong một tấm gương, có ngần, có hạn” (1 Cr 13,12). Mặc dù đức tin sáng tỏ nhờ Đấng chúng ta tin, nhưng đời sống đức tin lại thường tối tăm. Đức tin có thể bị thử thách. Trần gian mà chúng ta đang sống thường được coi như xa vời với những gì đức tin tuyên xưng; những kinh nghiệm về sự dữ và đau khổ, về những bất công và cái chết, dường như mâu thuẫn với Tin Mừng; những điều đó có thể làm cho đức tin bị nao núng và trở thành một cám dỗ đối với đức tin.

Bài này đã được xem 5618 lần!

Pages ( 7 of 96 ): <1 ... 56 7 89 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]