GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

2034. Đức Giáo Hoàng và các Giám mục, với tư cách là “những thầy dạy đích thực, nghĩa là những người giảng dạy bằng quyền bính của Đức Ki-tô, rao giảng cho dân được trao phó cho các ngài, những điều phải tin và phải áp dụng vào cách ăn nết ở.”79 Huấn quyền thông thường và phổ quát của Đức Giáo Hoàng và các Giám mục hiệp thông với ngài, dạy các tín hữu chân lý phải tin, đức mến phải thực thi, vinh phúc phải trông cậy.

2035. Cấp độ tối thượng của việc tham dự vào quyền bính của Đức Ki-tô được bảo đảm bởi đặc sủng là ơn bất khả ngộ. “Kho tàng mặc khải thần linh trải rộng bao nhiêu, thì ơn này trải rộng bấy nhiêu”;80 ơn này cũng trải rộng tới tất cả các yếu tố của đạo lý, trong đó có đạo lý về luân lý, nếu không có những yếu tố này, các chân lý cứu độ của đức tin sẽ không thể được bảo toàn, trình bày hay tuân giữ.81

2036. 1960

Quyền bính của Huấn quyền cũng trải rộng đến các mệnh lệnh đặc thù của luật tự nhiên, bởi vì việc tuân giữ các mệnh lệnh đó, do Đấng Tạo hóa đòi hỏi, là cần thiết để được cứu độ. Khi nhắc lại các quy định của luật tự nhiên, Huấn quyền của Hội Thánh thực thi phần chính yếu của nhiệm vụ tiên tri của mình, là loan báo cho mọi người họ thật sự là gì, và nhắc nhở họ phải là gì trước mặt Thiên Chúa.82

2037. 2041

Luật của Thiên Chúa, được ký thác cho Hội Thánh, với tính cách là con đường của sự sống và của chân lý, được trao cho các tín hữu. Vì vậy, các tín hữu có quyền83 được giáo huấn về các mệnh lệnh cứu độ của Thiên Chúa, chúng thanh luyện trí phán đoán và nhờ ân sủng, chữa lành lý trí con người đã bị tổn thương. Các tín hữu có nghĩa vụ tuân giữ các hiến chế và sắc lệnh do quyền bính hợp pháp của Hội Thánh công bố. Những quyết định này, mặc dầu mang tính kỷ luật, vẫn đòi sự mau mắn vâng phục trong đức mến.

2038. 2442

Trong việc giảng dạy và áp dụng luân lý Ki-tô Giáo, Hội Thánh cần đến sự tận tâm của các mục tử, kiến thức của các nhà thần học và sự đóng góp của mọi Ki-tô hữu và mọi người thiện chí. Đức tin và việc thực hành Tin Mừng đem lại cho mỗi người một kinh nghiệm về đời sống “trong Đức Ki-tô”, kinh nghiệm này soi sáng cho họ và giúp họ có khả năng đánh giá những thực tại thần linh và nhân linh theo Thần Khí của Thiên Chúa.84 Như vậy, Chúa Thánh Thần có thể dùng những kẻ thấp hèn nhất, để soi sáng cho những người thông thái và những người có chức phận cao trọng hơn.

2039. 1783

Các thừa tác vụ phải được thực thi trong tinh thần phục vụ huynh đệ và tận tụy đối với Hội Thánh, nhân danh Chúa.85 Đồng thời khi đưa ra phán đoán luân lý về các hành vi cá vị của mình, lương tâm của mỗi người phải tránh đừng khép kín trong sự quan tâm cá nhân. Hết sức có thể, phải cố gắng tự mở rộng để quan tâm đến lợi ích của mọi người, như được trình bày trong luật luân lý tự nhiên và được mặc khải, và tiếp đó trong luật Hội Thánh và trong đạo lý đích thực của Huấn quyền về các vấn đề luân lý. Không được đối nghịch lương tâm cá vị và lý trí với luật luân lý hay với Huấn quyền của Hội Thánh.

2040. 167

Như vậy, giữa các Ki-tô hữu, một tinh thần con thảo đích thực đối với Hội Thánh có thể tăng trưởng. Tinh thần đó là sự triển nở bình thường của ân sủng Phép Rửa, ân sủng này đã sinh chúng ta vào trong lòng Hội Thánh và làm cho chúng ta trở nên những chi thể của Thân Thể Đức Ki-tô. Hội Thánh, với sự quan tâm từ mẫu của mình, ban cho chúng ta lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng thương xót này vượt trên mọi tội lỗi của chúng ta, và hành động một cách đặc biệt trong bí tích Hòa Giải. Hội Thánh, như một người mẹ ân cần, cũng rộng ban cho chúng ta mỗi ngày, trong phụng vụ của mình, lương thực là Lời và Thánh Thể của Chúa.

II. Các điều răn của Hội Thánh (2041-2043)

2041. Các điều răn của Hội Thánh được đặt trong đường hướng một đời sống luân lý gắn liền với đời sống phụng vụ và được đời sống phụng vụ nuôi dưỡng. Tính cách bắt buộc của các luật thiết định này được công bố bởi các quyền bính mục vụ, có mục đích cung cấp cho các tín hữu mức tối thiểu rất cần thiết về tinh thần cầu nguyện và về nỗ lực luân lý, để gia tăng lòng mến Chúa yêu người.

2042. 1389, 2180, 1457, 1389

Điều răn thứ nhất (“Vào các Chúa nhật và các ngày lễ buộc, các tín hữu phải tham dự Thánh Lễ và tránh những công việc nô dịch”) đòi các tín hữu thánh hóa ngày tưởng niệm cuộc phục sinh của Chúa, cũng như những lễ phụng vụ chính để tôn kính các mầu nhiệm của Chúa, của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a diễm phúc và của các Thánh, trước hết bằng việc tham dự cuộc cử hành bí tích Thánh Thể, trong đó cộng đoàn Ki-tô hữu được quy tụ, và tránh không làm những việc lao động và những việc tự bản chất có thể cản trở việc thánh hóa những ngày đó.86

Điều răn thứ hai (“Xưng tội trong một năm ít là một lần”) bảo đảm việc chuẩn bị rước Thánh Thể bằng việc lãnh nhận bí tích Hòa Giải, nối tiếp công việc hối cải và tha thứ của bí tích Rửa Tội.87

Điều răn thứ ba (“Rước Mình Thánh Chúa ít là một lần trong mùa Phục Sinh”) bảo đảm mức tối thiểu trong việc rước Mình và Máu Thánh Chúa, được liên kết với các lễ trong mùa Phục Sinh, vì Phục Sinh là nguồn gốc và là trung tâm của phụng vụ Ki-tô Giáo.88

2043. 2177, 1387, 1438, 1351

Điều răn thứ tư (“Kiêng thịt và giữ chay trong những ngày thống hối do Hội Thánh quy định) bảo đảm thời gian khổ chế và thống hối để chuẩn bị cho chúng ta mừng các lễ phụng vụ, và giúp chúng ta làm chủ được các bản năng và đạt tới sự tự do của trái tim.89

Điều răn thứ năm (“Đóng góp cho các nhu cầu của Hội Thánh”) dạy các tín hữu có bổn phận đóng góp cho các nhu cầu vật chất của Hội Thánh, mỗi người tùy theo khả năng của mình.90

III. Đời sống luân lý và chứng từ truyền giáo (2044-2046)

2044. 852, 905

Lòng trung thành của những người đã lãnh Phép Rửa là điều kiện tiên quyết đối với việc loan báo Tin Mừng và đối với sứ vụ của Hội Thánh trong trần gian. Để tỏ cho mọi người thấy sức mạnh của nó về chân lý và sự rạng ngời, sứ điệp cứu độ phải được chứng thực bằng chứng từ của đời sống các Ki-tô hữu. “Chính chứng từ của đời sống Ki-tô hữu và các việc tốt lành được thực thi với tinh thần siêu nhiên, có sức mạnh lôi kéo người ta đến với đức tin và đến với Thiên Chúa.”91

2045. 753, 828

Bởi vì là các chi thể của Thân Thể mà Đức Ki-tô là Đầu,92 các Ki-tô hữu góp phần vào việc xây dựng Hội Thánh bằng sự kiên trì trong xác tín của mình và trong đời sống luân lý của mình. Hội Thánh được tăng số, lớn lên và triển nở bằng sự thánh thiện của các tín hữu của mình,93 cho tới khi chính họ làm thành “con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô” (Ep 4,13).

2046. 671, 2819

Bằng đời sống theo Đức Ki-tô của mình, các Ki-tô hữu làm cho Nước Thiên Chúa mau đến, đó là “Nước của công bằng, của tình yêu và của bình an.”94 Nhưng không vì thế mà họ xao lãng nhiệm vụ trần thế của mình; chính họ, trung thành với Thầy mình, chu toàn nhiệm vụ đó với sự ngay thẳng, với sự nhẫn nại và với tình yêu.

Tóm lược (2047-2051)

2047. Đời sống luân lý là một việc phụng tự thiêng liêng. Cách hành động của Ki-tô hữu được nuôi dưỡng trong phụng vụ và trong việc cử hành các bí tích.

2048. Các điều răn của Hội Thánh liên quan đến đời sống luân lý và Ki-tô Giáo, gắn liền với đời sống phụng vụ, và được đời sống phụng vụ nuôi dưỡng.

2049. Huấn quyền của các mục tử Hội Thánh về vấn đề luân lý thường được thực thi trong việc dạy giáo lý và giảng dạy, dựa trên nền tảng Mười Điều Răn, vì Mười Điều Răn loan báo những nguyên tắc của đời sống luân lý, hữu hiệu cho tất cả mọi người.

2050. Đức Giáo Hoàng và các Giám mục, với tư cách là những thầy dạy đích thực, rao giảng cho dân Thiên Chúa những điều phải tin và phải áp dụng vào cách ăn nết ở. Các ngài cũng có quyền phán đoán về các vấn đề luân lý trong lãnh vực của luật tự nhiên và của lý trí.

2051. Ơn bất khả ngộ của Huấn quyền của các mục tử trải rộng tới tất cả các yếu tố của đạo lý, trong đó có đạo lý về luân lý, nếu không có những yếu tố này, các chân lý cứu độ của đức tin sẽ không thể được bảo toàn, trình bày hay tuân giữ.


Chú thích

75 X. Gl 6,2.

76 X. Rm 12,1.

77 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 17: AAS 57 (1965) 21.

78 Bộ Giáo Luật, điều 747,2.

79 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 25: AAS 57 (1965) 29.

80 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 25: AAS 57 (1965) 30.

81 X. Thánh bộ Giáo lý Đức Tin, Tuyên ngôn Mysterium Ecclesiae, 3: AAS 65 (1973) 401.

82 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Dignitatis humanae, 14: AAS 58 (1966) 940.

83 X. Bộ Giáo Luật, điều 213.

84 X.1 Cr 2,10-15.

85 X. Rm 12,8.11.

86 X. Bộ Giáo Luật, các điều 1246-1248; Bộ Giáo Luật Đông phương, các điều 880,3. 881,1.2.4.

87 X. Bộ Giáo Luật, điều 989; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 719.

88 X. Bộ Giáo Luật, điều 920; Bộ Giáo Luật Đông phương, các điều 708.881,3.

89 X. Bộ Giáo Luật, các điều 1249-1251; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 882.

90 X. Bộ Giáo Luật, điều 222; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 25; x. Bộ Giáo Luật, điều 455.

91 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 6: AAS 58 (1966) 842.

92 X. Ep 1,22.

93 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 39: AAS 57 (1095) 44.

94 Lễ trọng Chúa Giê-su Ki-tô Vua vũ trụ, Kinh Tiền tụngSách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 381.

MƯỜI ĐIỀU RĂN

Xuất hành 20,2-17

Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ.
Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời.
Ngươi không được dùng danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì ĐỨC CHÚA không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng.
Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, ĐỨC CHÚA đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, ĐỨC CHÚA đã chúc phúc cho ngày sa-bát và coi đó là ngày thánh.
Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi.
Ngươi không được giết người.
Ngươi không được ngoại tình.
Ngươi không được trộm cắp.
Ngươi không được làm chứng gian hại người.
Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta.

Đệ Nhị Luật 5,6-21

Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ.
Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta…
Ngươi không được dùng danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi một cách bất xứng…
Ngươi hãy giữ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh…
Ngươi hãy thờ cha kính mẹ…
Ngươi không được giết người.
Ngươi không được ngoại tình.
Ngươi không được trộm cắp.
Ngươi không được làm chứng dối hại người.
Ngươi không được ham muốn vợ người ta…
ngươi không được thèm muốn… bất cứ vật gì của người ta.

Công thức Giáo lý95

Thứ nhất: thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.
Thứ hai: chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ.
Thứ ba: giữ ngày Chúa nhật.
Thứ bốn: thảo kính cha mẹ.
Thứ năm: chớ giết người.
Thứ sáu: chớ làm sự dâm dục.
Thứ bảy: chớ lấy của người.
Thứ tám: chớ làm chứng dối.
Thứ chín: chớ muốn vợ chồng người.
Thứ mười: chớ tham của người.


Chú thích

95 Catechismus Catholicus, cura et studio P. Card. Gasparri concinnatus (Typis Polyglottis Vaticanis 1933) 23-24. Chú thích riêng của bản dịch tiếng Việt: Mục Lục, Đạo Đức Chúa Trời có Mười Điều Răn (Saigon: Imprimerie de la Mission Tân Định, 1951), 35.

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

“Thưa Thầy, tôi phải làm gì…?” (2052-2055)

2052. 1858

“Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?” Để trả lời cho người thanh niên đặt câu hỏi, Chúa Giê-su nêu lên trước tiên sự cần thiết phải nhận biết Thiên Chúa như “Đấng tốt lành mà thôi”, như Điều Thiện tuyệt hảo và như nguồn mạch của mọi điều tốt lành. Rồi Chúa Giê-su tuyên bố với người đó: “Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn.” Và Người liệt kê các điều răn về tình yêu đối với người lân cận: “Ngươi không được giết người, ngươi không được ngoại tình, ngươi không được trộm cắp, ngươi không được làm chứng gian, ngươi phải thờ cha kính mẹ.” Sau cùng, Chúa Giê-su tóm tắt các điều răn kể trên một cách tích cực rằng: “Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình” (Mt 19,16-19).

2053. (1968, 1973) Chúa Giê-su còn thêm vào câu trả lời đầu tiên: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời; rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19,21). Câu trả lời này không hủy bỏ câu trả lời trước. Muốn đi theo Đức Ki-tô, phải tuân giữ các điều răn. Luật cũ không bị bãi bỏ,1 nhưng con người được mời gọi tìm thấy lại Lề luật nơi con người của Thầy mình, Đấng chu toàn Lề luật cách trọn hảo. Trong ba Tin Mừng Nhất Lãm, lời kêu gọi của Chúa Giê-su ngỏ với anh thanh niên giàu có, để đi theo Người với lòng vâng phục của người môn đệ và tuân giữ các điều răn, còn được kết hợp với lời kêu gọi sống nghèo khó và khiết tịnh.2 Các lời khuyên Phúc Âm không thể bị tách biệt khỏi các điều răn.

2054. 581

Chúa Giê-su đã lấy lại mười điều răn, nhưng Người đã biểu lộ sức mạnh của Thần Khí đang tác động nơi các mặt chữ ấy; Người đã rao giảng sự công chính “vượt trên sự công chính của các kinh sư và những người Pha-ri-sêu”,3 cũng như sự công chính của các dân ngoại.4 Người cho thấy tất cả những đòi hỏi của các điều răn. “Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng: chớ giết người… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa” (Mt 5,21-22).

2055. 129

Khi người ta đặt cho Người câu hỏi: “Điều răn nào là điều răn trọng nhất?” (Mt 22,36), Chúa Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi: đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Lề Luật và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,37-40).5 Mười Điều Răn phải được giải thích dưới ánh sáng của điều răn, tuy hai nhưng là một, là đức mến, đó là sự viên mãn của Lề Luật:

“Các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại, yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13,9-10).

Mười Điều Răn trong Thánh Kinh (2056-2063)

2056. 700, 62

Từ “Decalogus” theo sát mặt chữ có nghĩa là “Mười lời” (Xh 34,28; Đnl 4,13; 10,4). “Mười lời” này Thiên Chúa đã mặc khải cho dân Ngài trên núi thánh. Ngài đã viết “Mười lời” này “tự ngón tay Ngài”,6 khác với các mệnh lệnh khác do ông Mô-sê viết.7 Mười lời này, theo một nghĩa rất đặc biệt, làm thành những lời của Thiên Chúa. Những lời đó được lưu truyền cho chúng ta trong sách Xuất Hành8 và sách Đệ Nhị Luật.9 Từ thời Cựu Ước, các Sách Thánh luôn quy chiếu về “Mười lời”,10 nhưng trong Tân Ước ý nghĩa đầy đủ của những lời đó sẽ được mặc khải nơi Chúa Giê-su Ki-tô.

2057. 2084, 2170

Trước hết, Mười Điều Răn phải được hiểu trong bối cảnh của cuộc Xuất Hành, là biến cố giải phóng vĩ đại của Thiên Chúa, ở trung tâm của Giao Ước cũ. Dù được viết với tính cách những mệnh lệnh tiêu cực, những cấm đoán, hay với tính cách những mệnh lệnh tích cực (như “ngươi hãy tôn kính cha ngươi và mẹ ngươi”), “Mười lời” chỉ ra những điều kiện cho một đời sống đã được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi. Mười Điều Răn là con đường của sự sống:

“Anh (em) phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đi theo đường lối của Ngài, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Ngài, để anh (em) được sống, được thêm đông đúc” (Đnl 30,16).

Sức mạnh giải thoát này của Mười Điều Răn xuất hiện, thí dụ trong điều răn nghỉ ngày sa-bát, áp dụng cho cả các ngoại kiều và các nô lệ:

“Ngươi hãy nhớ, ngươi đã làm nô lệ tại đất Ai-cập, và Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã dang cánh tay mạnh mẽ, uy quyền đưa ngươi ra khỏi đó” (Đnl 5,15).

2058. 1962

“Mười lời” tóm tắt và công bố Lề Luật của Thiên Chúa: “Những lời ấy, Chúa đã phán với toàn thể đại hội anh em, trên núi, từ trong đám lửa, giữa mây đen mù mịt, Ngài nói lớn tiếng và không thêm gì cả. Ngài đã viết những lời ấy trên hai bia đá, và ban cho tôi” (Đnl 5,22). Vì vậy, hai bia này được gọi là “Chứng Ước” (Xh 25,16). Những bia đó chứa đựng các điều khoản của Giao Ước đã được ký kết giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Các “Bia Chứng Ước” (Xh 31,18; 32,15; 34,29) này phải được đặt vào “Hòm Bia” (Xh 25,16; 40,1-2).

Bài này đã được xem 5637 lần!

Pages ( 70 of 96 ): <1 ... 6869 70 7172 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]