2059. 707, 2823
“Mười lời” được Thiên Chúa công bố trong một cuộc thần hiện (“Chúa đã phán với anh em, mặt đối mặt, trên núi, từ trong đám lửa”: Đnl 5,4). Mười lời này thuộc về mặc khải, Thiên Chúa tỏ cho biết về chính Ngài và về vinh quang của Ngài. Khi ban các điều răn, Thiên Chúa ban tặng chính mình Ngài và thánh ý của Ngài. Khi tỏ cho biết các thánh ý Ngài, Thiên Chúa mặc khải chính mình cho dân Ngài.
2060. 62
Việc ban tặng các điều răn và Lề Luật là thành phần của Giao Ước được ký kết bởi Thiên Chúa với dân Ngài. Theo sách Xuất Hành, việc mặc khải “Mười lời” được ban giữa việc chuẩn bị lập giao ước11 và việc kết thúc giao ước12 – sau khi dân đã cam kết “thi hành” điều Chúa phán và “tuân phục” điều đó.13 Mười Điều Răn chỉ được lưu truyền sau khi nhắc nhớ đến Giao Ước. (“Chúa, Thiên Chúa chúng ta, đã lập một Giao Ước với chúng ta tại núi Horeb”: Đnl 5,2).
2061. 2086
Các điều răn nhận được ý nghĩa đầy đủ của nó trong Giao Ước. Theo Thánh Kinh, cách hành động theo luân lý của con người có được đầy đủ ý nghĩa của nó trong và nhờ Giao Ước. Điều thứ nhất của “Mười lời” nhắc lại rằng chính Thiên Chúa đã yêu thương dân Ngài trước:
“Chính vì hình phạt tội lỗi là sự kiện chuyển từ địa đàng của sự tự do sang tình trạng nô lệ của trần gian này, mà câu đầu tiên của Mười Điều Răn, lời thứ nhất của các lệnh truyền của Thiên Chúa, nói đến tự do: ‘Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ’ (Xh 20,2; Đnl 5,6).”14
2062. 142, 2002
Các điều răn theo nghĩa hẹp chỉ giữ vai trò thứ yếu; chúng diễn tả những hệ luận của việc con người thuộc về Thiên Chúa như Giao Ước quy định. Đời sống luân lý là lời đáp cho khởi xướng đầy yêu thương của Chúa. Đó là sự nhận biết, sự suy phục Thiên Chúa và thờ phượng tạ ơn. Đó là sự cộng tác vào dự định mà Thiên Chúa đang theo đuổi trong lịch sử.
2063. 878
Giao Ước và cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa với con người cũng được xác nhận qua sự kiện là tất cả các bổn phận đều được phát biểu ở ngôi thứ nhất (“Ta là Chúa…”) và nói với một chủ thể khác (“Ngươi…”). Trong tất cả các điều răn của Thiên Chúa, đại từ nhân xưng ở số ít để chỉ người đón nhận. Khi bày tỏ thánh ý cho toàn dân, Thiên Chúa cũng đồng thời bày tỏ thánh ý của Ngài cho riêng từng cá nhân một:
“Chúa truyền dạy phải yêu mến Thiên Chúa và dạy giữ sự công bằng đối với người lân cận, để con người khỏi bất chính và bất xứng trước mặt Thiên Chúa. Như vậy, nhờ Mười Điều Răn, Thiên Chúa huấn luyện để con người sống trong tình bằng hữu với Ngài và hòa thuận với người lân cận… Và vì vậy, những lời của Mười Điều Răn vẫn trường tồn đối với chúng ta (các Ki-tô hữu), những lời đó không bị hủy bỏ, nhưng được mở rộng và triển nở nhờ cuộc Ngự đến của Chúa trong xác phàm.”15
Mười Điều Răn trong Truyền thống Hội Thánh (2064-2068)
2064. Trung thành với Sách Thánh và theo gương Chúa Giê-su, Truyền thống Hội Thánh nhìn nhận Mười Điều Răn có tầm quan trọng và ý nghĩa hàng đầu.
2065. Từ thời thánh Augustinô, “Mười Điều Răn” đã có một vị trí quan trọng trong việc dạy giáo lý cho dự tòng và tín hữu. Vào thế kỷ XV, Mười Điều Răn quen được diễn tả bằng những công thức tích cực, theo văn vần, dễ nhớ, vẫn còn thông dụng ở nhiều nơi tới ngày nay. Các sách giáo lý của Hội Thánh thường trình bày luân lý Ki-tô Giáo theo thứ tự của “Mười Điều Răn.”
2066. Việc phân chia và đánh số các điều răn có thay đổi theo dòng thời gian. Sách Giáo Lý này dựa theo cách phân chia của thánh Augustinô đã trở thành truyền thống trong Hội Thánh Công giáo. Các hệ phái Luther cũng theo cách phân chia này. Các Giáo phụ Hi lạp phân chia hơi khác; cách phân chia đó còn gặp thấy trong các Giáo Hội Chính thống và các cộng đoàn Cải cách.
2067. 1853
Mười Điều Răn nêu ra các đòi hỏi của lòng mến Chúa yêu người. Ba điều răn đầu đề cập đến tình yêu đối với Thiên Chúa, và bảy điều răn sau, đến tình yêu đối với người lân cận.
“Cũng như Chúa đã đúc kết tất cả Lề Luật và các Tiên tri vào trong hai điều răn của lòng yêu mến…, thì cũng vậy, Mười Điều Răn được ban trong hai bảng. Ba điều được khắc trên một bảng, và bảy điều trên bảng kia.”16
2068. 1993, 888
Công đồng Tri-đen-ti-nô dạy rằng: các Ki-tô hữu buộc phải giữ Mười Điều Răn, và người đã được công chính hóa cũng có bổn phận phải tuân giữ các điều răn ấy.17 Công đồng Va-ti-ca-nô II cũng khẳng định: “Các Giám mục vì là những vị kế nhiệm các Tông Đồ, nhận từ nơi Chúa… sứ vụ dạy dỗ muôn dân và rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo, để mọi người được cứu độ nhờ đức tin, Phép Rửa và việc chu toàn các Điều Răn.”18
Tính thống nhất của Mười Điều Răn (2069)
2069. 2534
Mười Điều Răn tạo thành một tổng thể thống nhất không thể tách biệt. Mỗi “lời” quy chiếu về từng lời và về tất cả các lời khác; các lời tương thuộc lẫn nhau. Hai Bảng Luật soi sáng cho nhau, hợp thành một tổng thể thống nhất hữu cơ. Vi phạm một điều răn là vi phạm tất cả các điều răn khác.19 Không thể tôn trọng người khác mà không chúc tụng Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa của họ. Không thể tôn thờ Thiên Chúa mà không yêu thương tất cả mọi người là thụ tạo của Ngài. Mười Điều Răn thống nhất đời sống đối thần với đời sống xã hội của con người.
Mười Điều Răn và luật tự nhiên (2070-2071)
2070. 1955
Mười Điều Răn thuộc về mặc khải của Thiên Chúa; đồng thời dạy chúng ta biết nhân tính đích thực của con người. Mười Điều Răn làm sáng tỏ những bổn phận thiết yếu, do đó, một cách gián tiếp, cho thấy những quyền căn bản gắn liền với bản tính của nhân vị. Mười Điều Răn là một cách trình bày đặc sắc của “luật tự nhiên”:
“Từ nguyên thủy, Thiên Chúa đã ghi sâu trong lòng người các lệnh truyền của luật tự nhiên – mà nếu không thi hành thì không được cứu độ -. Sau đó Ngài chỉ cần nhắc lại các điều luật ấy cho họ. Đó chính là Mười Điều Răn.”20
2071. 1960, 1777
Mười Điều Răn là mặc khải của Thiên Chúa, dù với lý trí con người có thể tự biết được, nhưng để hiểu biết đầy đủ và chắc chắn về các đòi hỏi của luật tự nhiên, loài người tội lỗi cần đến mặc khải này:
“Trong tình trạng tội lỗi, ánh sáng lý trí bị lu mờ và ý chí bị sai lệch, con người cần đến một trình bày đầy đủ về các điều khoản của Mười Điều Răn.”21 Chúng ta biết được các điều răn của Thiên Chúa nhờ mặc khải thần linh được trình bày trong Hội Thánh và nhờ tiếng nói của lương tâm.
Tính bắt buộc của Mười Điều Răn (2072-2073)
2072. 1858, 1958
Vì nêu lên những bổn phận căn bản của con người đối với Thiên Chúa và đối với người lân cận, Mười Điều Răn, trong nội dung chính yếu của nó, mặc khải những nghĩa vụ quan trọng. Mười Điều Răn, một cách căn bản, là bất biến và có giá trị bắt buộc mọi lúc và mọi nơi. Không ai có thể miễn chuẩn Mười Điều Răn, đã được Thiên Chúa ghi khắc trong trái tim con người.
2073. Việc tuân phục các điều răn cũng bao hàm những bắt buộc mà theo chất liệu tự nó là nhẹ. Chẳng hạn điều răn thứ năm cấm nhục mạ kẻ khác bằng lời nói; điều này không thể là một lỗi phạm nghiêm trọng nếu không do các hoàn cảnh hoặc ý hướng của người nói lời nhục mạ đó.
“Không có Thầy, anh em không làm gì được” (2074)
2074. 2732, 521
Chúa Giê-su nói: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Hoa trái được nói đến trong lời này là sự thánh thiện của một đời sống được sinh sôi nảy nở nhờ kết hợp với Đức Ki-tô. Khi chúng ta tin vào Chúa Giê-su Ki-tô, chúng ta truyền thông các mầu nhiệm của Người và tuân giữ các điều răn của Người, thì chính Người là Đấng Cứu Độ đến trong chúng ta để yêu thương Cha Người và các anh em Người, cũng là Cha chúng ta và các anh em chúng ta. Nhờ Thần Khí, bản thân Chúa Giê-su trở thành quy luật sống động và nội tâm cho cách hành động của chúng ta. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
Tóm lược (2075-2082)
2075. “Tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?” – “Nếu anh… muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19,16-17).
2076. Qua cách hành động và lời giảng dạy của Người, Chúa Giê-su đã xác nhận giá trị trường tồn của Mười Điều Răn.
2077. Việc ban Mười Điều Răn được thực hiện giữa Giao Ước được Thiên Chúa ký kết với dân Ngài. Các Điều Răn của Thiên Chúa nhận được ý nghĩa đích thực của chúng trong Giao Ước và nhờ Giao Ước.
2078. Trung thành với Thánh Kinh và theo gương Chúa Giê-su, Truyền thống Hội Thánh nhìn nhận Mười Điều Răn có tầm quan trọng và ý nghĩa hàng đầu.
2079. Mười Điều Răn tạo thành một tổng thể thống nhất hữu cơ, trong đó mỗi “lời” hay ”điều răn” đều quy chiếu về toàn thể. Vi phạm một điều răn là vi phạm toàn bộ lề luật.22
2080. Mười Điều Răn là một cách diễn đạt đặc sắc của luật tự nhiên. Chúng ta biết được Mười Điều Răn nhờ mặc khải của Thiên Chúa và nhờ lý trí của con người.
2081. Trong nội dung căn bản của chúng, Mười Điều Răn đưa ra những bắt buộc quan trọng. Tuy nhiên, việc tuân giữ các điều răn này cũng bao hàm những bắt buộc mà theo chất liệu tự nó là nhẹ.
2082. Điều gì Thiên Chúa truyền dạy, Ngài đều ban ân sủng để chúng ta có thể thực hiện.
Đề mục
Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)
Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)
Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)
CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)
Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)
Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)
Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)
Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)
Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)
Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)
Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)
Chú thích
1 X. Mt 5,17.
2 X. Mt 19,6-12.21.23-29.
3 X. Mt 5,20.
4 X. Mt 5,46-47.
5 X. Đnl 6,5; Lv 19,18.
6 X. Xh 31,18; Đnl 5,22.
7 X. Đnl 31,9.24.
8 X. Xh 20,1-17.
9 X. Đnl 5,6-22.
10 X. chẳng hạn, Hs 4,2; Gr 7,9; Ed 18,5-9.
11 X. Xh 19.
12 X. Xh 24.
13 X. Xh 24,7.
14 Ôrigiênê, In Exodum homilia 8,1: SC 321,242 (PG 12,350).
15 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 4, 16, 3-4: SC 100,566-570 (PG 7,1017-1018).
16 Thánh Augustinô, Sermo 33, 2: CCL 41,414 (PL 38,208).
17 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, canones 19-20: DS 1569-1570.
18 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 24: AAS 57 (1965).
19 X. Gc 2,10-11.
20 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 4, 15, 1: SC 100,548 (PG 7,1012).
21 Thánh Bô-na-ven-tu-ra, In quattuor libros Sententiarum, 3, 37, 1, 3: Opera omnia, v. 3 (Ad Claras Aquas 1887) 819-820.
22 X. Gc 2,10-11.
CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)
2083. 367, 199
Chúa Giê-su tóm tắt các bổn phận của con người đối với Thiên Chúa bằng giới răn này: “Ngươi phải yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22,37).1 Đây là âm vang trực tiếp của lời hiệu triệu long trọng: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất” (Đnl 6,4). Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Tình yêu của Thiên Chúa duy nhất được nhắc đến trong lời thứ nhất của “Mười lời.” Các điều răn sau đó giải thích câu trả lời của tình yêu mà con người được kêu gọi để đáp lại Thiên Chúa.
Đề mục
Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)
Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)
Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)
Chú thích
1 X. Lc 10,27: “…hết sức lực ngươi.”
Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)
“Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ” (Xh 20,2-5).2 “Đã có lời chép rằng: ‘Ngươi phải bái lạy ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi’” (Mt 4,10).
I. “Chính Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là Đấng ngươi phải phụng thờ; chính Ngài là Đấng ngươi phải phụng sự” (2084-2094)
2084. 2057, 398
Thiên Chúa tự mặc khải bằng cách nhắc lại hành động đầy quyền năng, nhân hậu và giải phóng của Ngài trong lịch sử: “Ta đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Đnl 5,6). Lời đầu tiên chứa đựng giới răn thứ nhất của Lề luật: “Chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) là Đấng anh (em) phải kính sợ, chính Ngài là Đấng anh (em) phải phụng thờ… Anh em không được theo những thần khác” (Đnl 6,13-14). Lời hiệu triệu đầu tiên và đòi hỏi chính đáng của Thiên Chúa là con người phải đón nhận và tôn thờ Ngài.
2085. 200, 1701
Thiên Chúa duy nhất và chân thật trước hết mặc khải vinh quang của Ngài cho Ít-ra-en.3 Mặc khải về ơn gọi và chân lý về con người được gắn liền với mặc khải về Thiên Chúa. Con người có ơn gọi phải biểu lộ Thiên Chúa qua cách hành động của mình, phù hợp với việc mình được tạo dựng “theo hình ảnh và giống như” Thiên Chúa (St 1,26):
“Thưa ông Triphon, chưa bao giờ có Thiên Chúa nào khác và từ muôn đời, cũng không hề có Thiên Chúa nào khác (…) ngoài Đấng đã tạo dựng và xếp đặt vũ trụ. Chúng tôi không nghĩ rằng Thiên Chúa của chúng tôi khác với Thiên Chúa của ông. Chính Ngài là Đấng đã đưa tổ tiên ông ra khỏi đất Ai-cập ‘bằng bàn tay hùng mạnh và cánh tay giương cao’. Chúng tôi không đặt hy vọng vào bất cứ vị nào khác, vì không có, nhưng vào cùng một Đấng là Thiên Chúa của ông, Thiên Chúa của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Giacob.”4
2086. 212, 2061
“Điều răn thứ nhất bao gồm đức tin, đức cậy và đức mến. Vì khi chúng ta nói đến Thiên Chúa, là chúng ta tuyên xưng một cách đúng đắn không sai sót, Ngài là Đấng thường hằng, bất biến, mãi mãi vẫn là chính Ngài, trung tín; do đó, khi chúng ta đón nhận các sấm ngôn của Ngài, thì cần thiết là chúng ta phải hoàn toàn tin vào Ngài và nhận biết quyền bính của Ngài. Thật vậy, ai chiêm ngắm quyền năng, lòng nhân hậu và việc thi ân giáng phúc của Ngài, mà lại có thể không đặt trọn tất cả hy vọng nơi Ngài? Và ai chiêm ngưỡng kho tàng của sự tốt lành và lòng yêu thương của Ngài, đã được tuôn đổ trên chúng ta, mà lại có thể không yếu mến Ngài? Vì vậy, cả khi khởi đầu, cả khi kết thúc các điều Ngài truyền dạy trong Thánh Kinh, Thiên Chúa dùng lời này: Ta là Chúa.”5
Đức tin (2087-2089) [1814-1816]
2087. 143
Đời sống luân lý của chúng ta bắt nguồn từ đức tin vào Thiên Chúa, Đấng mặc khải tình yêu của Ngài cho chúng ta. Thánh Phao-lô nói đến sự vâng phục của đức tin6 như là nghĩa vụ hàng đầu. Thánh nhân cho thấy rằng chính sự “không nhận biết Thiên Chúa” là nguyên nhân và lời giải thích cho mọi lệch lạc luân lý.7 Bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa là tin vào Ngài và làm chứng về Ngài.
2088. Điều răn thứ nhất đòi hỏi chúng ta, một cách khôn ngoan và tỉnh thức, phải nuôi dưỡng và giữ gìn đức tin của chúng ta, và phải loại bỏ tất cả những gì nghịch với đức tin. Có nhiều cách phạm tội nghịch với đức tin:
Cố tình nghi ngờ trong lãnh vực đức tin là tội thờ ơ hay không nhìn nhận những điều Thiên Chúa đã mặc khải và Hội Thánh dạy phải tin, là chân thật. Vô tình nghi ngờ là sự do dự khi tin, là sự khó khăn khi vượt qua những vấn nạn về đức tin hay thậm chí sự lo lắng do bóng tối của đức tin gợi lên. Sự nghi ngờ, nếu được cổ võ cách có chủ ý, có thể dẫn tới sự mù quáng của tâm trí.
2089. 162, 817
Sự vô tín là thờ ơ với chân lý mặc khải hay cố tình từ chối chấp nhận chân lý đó. “Lạc giáo là ngoan cố chối bỏ một chân lý phải tin với đức tin đối thần và Công giáo hoặc ngoan cố hồ nghi về chân lý ấy sau khi đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội; bội giáo là chối bỏ toàn bộ đức tin Ki-tô Giáo; ly giáo là từ chối vâng phục Đức Giáo Hoàng hoặc từ chối hiệp thông với các chi thể của Hội Thánh thuộc quyền ngài.”8
Đức cậy (2090-2092) [1817-1821]
2090. 1996
Khi Thiên Chúa tự mặc khải và kêu gọi con người, con người không thể đáp lại trọn vẹn tình yêu thần linh bằng sức riêng mình. Họ phải trông cậy, Thiên Chúa sẽ ban cho họ khả năng để yêu lại Ngài và khả năng để hành động theo các giới răn của đức mến. Đức cậy là sự mong đợi đầy tin tưởng sự chúc lành của Thiên Chúa và sự vinh phúc hưởng kiến Thiên Chúa; đức cậy cũng là việc sợ xúc phạm đến tình yêu của Thiên Chúa và sợ bị trừng phạt.
2091. 1864
Điều răn thứ nhất cũng nhắm đến các tội nghịch với đức cậy, là sự ngã lòng và sự tự phụ:
Bằng sự ngã lòng, con người không còn hy vọng Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho mình, không còn hy vọng những sự trợ giúp để mình đạt tới ơn cứu độ, hay không còn hy vọng ơn tha thứ các tội lỗi của mình. Điều này nghịch với sự tốt lành của Thiên Chúa, nghịch với sự công chính của Ngài – bởi vì Thiên Chúa luôn trung tín với các lời hứa của Ngài -, và nghịch với lòng thương xót của Ngài.
2092. 2732
Có hai loại tự phụ. Hoặc con người quá cậy dựa vào các khả năng của mình (hy vọng mình có thể được cứu độ mà không cần sự trợ giúp của ơn trên), hoặc ỷ lại vào sự toàn năng và lòng thương xót của Thiên Chúa (hy vọng sẽ đạt được ơn tha thứ của Ngài mà không cần hối cải và đạt tới vinh quang của Ngài mà không cần lập công).
Bài này đã được xem 5612 lần!