Đức mến (2093-2094) [1822-1829]
2093. Đức tin vào tình yêu Thiên Chúa bao hàm ơn gọi và sự bắt buộc phải đáp lại tình yêu của Thiên Chúa bằng một đức mến chân thành. Điều răn thứ nhất dạy chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và yêu mến mọi thụ tạo nhờ Ngài và vì Ngài.9
2094. 2733, 2303
Người ta có thể phạm tội nghịch với tình yêu Thiên Chúa bằng nhiều cách:
– Sự lãnh đạm là tội thờ ơ hay từ chối không quan tâm đến tình yêu của Thiên Chúa, không công nhận tình yêu đó luôn đi bước trước và phủ nhận sức mạnh của tình yêu đó.
– Sự vô ơn là tội quên lãng hay từ chối nhận biết tình yêu của Thiên Chúa và quên lãng hay từ chối đáp lại tình yêu này bằng tình yêu của mình.
– Sự nguội lạnh là tội do dự hay thờ ơ trong việc đáp lại tình yêu của Thiên Chúa, cũng có thể bao hàm sự từ chối dấn thân theo đức mến.
– Sự lười biếng hay uể oải về mặt thiêng liêng có thể đưa tới sự từ khước niềm vui xuất phát từ Thiên Chúa và khinh chê sự thiện hảo của Thiên Chúa.
– Sự căm ghét Thiên Chúa là do kiêu ngạo, chống lại tình yêu của Ngài, phủ nhận sự tốt lành của Ngài và cố ý nguyền rủa Thiên Chúa, Đấng cấm các tội lỗi và đặt ra các hình phạt.
II. “Ngươi phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi” (2095-2109)
2095. 1807
Các nhân đức đối thần “tin, cậy, mến” định hình và đem lại sức sống cho các nhân đức luân lý. Như vậy, đức mến đưa dẫn chúng ta đến chỗ trả lại cho Thiên Chúa điều mà, vì là các thụ tạo, chúng ta mắc nợ Ngài theo đức công bằng. Nhân đức thờ phượng giúp chúng ta sống tâm tình này.
Thờ lạy (2096-2097) [2628]
2096. Hành vi đầu tiên của nhân đức thờ phượng là thờ lạy. Thờ lạy Thiên Chúa, nghĩa là nhận biết Ngài là Thiên Chúa, là Đấng Tạo hóa và Cứu Độ, là Chúa và Chúa tể của mọi loài đang hiện hữu, là Tình Yêu vô biên và hay thương xót. Dựa vào sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6,13), Chúa Giê-su nói: “Ngươi phải bái lạy ĐỨC CHÚA, là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi” (Lc 4,8).
2097. 2807
Thờ lạy Thiên Chúa là tôn kính và tuyệt đối quy phục Ngài vì nhận biết “tính hư vô của thụ tạo”, nghĩa là thụ tạo không thể hiện hữu nếu không bởi Thiên Chúa. Thờ lạy Thiên Chúa là ca ngợi Ngài, như Đức Ma-ri-a trong kinh “Magnificat” (“Linh hồn tôi ngợi khen ĐỨC CHÚA”), là chúc tụng Ngài, hạ mình khiêm tốn tuyên xưng với lòng biết ơn rằng Thiên Chúa đã làm những việc trọng đại và Danh Ngài chí thánh.10 Việc thờ lạy Thiên Chúa duy nhất giải thoát con người khỏi thái độ tự khép kín, khỏi ách nô lệ tội lỗi và khỏi tội thờ ngẫu tượng là trần gian.
Cầu nguyện (2098) [2558]
2098. 2742
Các hành vi tin, cậy, mến, mà điều răn thứ nhất truyền dạy, được chu toàn trong kinh nguyện. Nâng tâm hồn lên tới Thiên Chúa là cách diễn tả việc chúng ta thờ lạy Ngài: lời kinh ca ngợi và tạ ơn, lời kinh chuyển cầu và cầu xin. Cầu nguyện là điều kiện hết sức cần thiết để có thể tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1).
Hy lễ (2099-2100)
2099. 613
Là điều chính đáng, việc dâng lên Thiên Chúa những hy lễ với tính cách là dấu chỉ của việc thờ lạy và tạ ơn, khẩn cầu và hiệp thông: “Mọi công việc được thực hiện để được gắn bó với Thiên Chúa trong sự hiệp thông thánh thiện và như vậy, chúng ta có thể được hạnh phúc, đều là hy lễ đích thực.”11
2100. 2711, 614, 618
Hy lễ bên ngoài, để có thể là hy lễ thật, phải là sự diễn tả của hy lễ tinh thần: “Tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát…” (Tv 51,19). Các tiên tri thời Giao Ước cũ thường tố cáo các hy lễ được thực hiện mà không có sự tham dự nội tâm12 hay không được liên kết với tình yêu đối với người lân cận.13 Chúa Giê-su nhắc lại lời của tiên tri Ôsê: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9,13; 12,7).14 Chỉ có một hy lễ trọn hảo duy nhất là hy lễ Đức Ki-tô đã dâng trên thập giá, bằng sự tận hiến cho tình yêu của Chúa Cha và để cứu độ chúng ta.15 Khi chúng ta kết hợp mình với hy lễ của Người, chúng ta có thể biến cuộc đời mình thành hy lễ dâng lên Thiên Chúa.
Các lời hứa và lời khấn (2101-2103)
2101. 1237, 1064
Trong nhiều hoàn cảnh, Ki-tô hữu được kêu gọi để tuyên các lời hứa với Thiên Chúa. Các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức, Hôn Phối và Truyền Chức Thánh luôn kèm theo những lời hứa. Do lòng đạo đức cá nhân, Ki-tô hữu cũng có thể hứa với Thiên Chúa để thực hiện một hành vi, một kinh nguyện, việc bố thí, việc hành hương, v.v… Việc trung thành tuân giữ các lời đã hứa với Thiên Chúa chứng tỏ sự tôn trọng đối với uy linh Thiên Chúa và đối với tình yêu dâng lên Thiên Chúa hằng trung tín.
2102. “Lời khấn tức là lời hứa, có suy nghĩ và tự do, với Thiên Chúa về một điều thiện khả thi và tốt hơn; vì thuộc về nhân đức thờ phượng, lời khấn phải được thực hiện.”16 Lời khấn là một hành vi đạo đức, nhờ đó Ki-tô hữu tự hiến cho Thiên Chúa hay hứa thực hiện một điều thiện dâng kính Ngài. Vì vậy, bằng việc chu toàn các lời khấn của mình, họ dâng lên Thiên Chúa điều họ đã hứa và đã được thánh hiến cho Ngài. Sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta thấy thánh Phao-lô lo lắng chu toàn những điều ngài đã khấn.17
2103. 1973, 914
Hội Thánh công nhận giá trị gương mẫu của những lời khấn sống theo các lời khuyên Phúc âm:18
“Hội Thánh là Mẹ chúng ta, vui mừng khi thấy trong lòng mình có nhiều con cái nam nữ muốn theo sát hơn và tỏ lộ cách rõ ràng sự tự hủy của Đấng Cứu Độ, khi chấp nhận sự nghèo khó trong sự tự do của con cái Thiên Chúa và từ bỏ ý riêng: họ tự nguyện tùng phục một con người vì Thiên Chúa trong vấn đề nên trọn lành, hơn cả mức đòi buộc của giới răn, hầu nên giống cách trọn vẹn hơn với Đức Ki-tô, Đấng vâng phục.”19
Trong một số trường hợp, Hội Thánh có thể miễn chuẩn những lời khấn và lời hứa, vì những lý do tương xứng.20
Bổn phận xã hội về tôn giáo và quyền tự do tôn giáo (2104-2109)
2104. 2467, 851
“Mọi người đều buộc phải đi tìm chân lý, đặc biệt là những gì liên quan tới Thiên Chúa và Hội Thánh của Ngài. Khi đã nhận ra chân lý, họ phải tiếp nhận và trung thành tuân giữ.”21 Bổn phận này xuất phát từ “chính bản tính của con người.”22 Bổn phận này không mâu thuẫn với sự chân thành tôn trọng các tôn giáo khác “thường cũng mang lại những tia sáng của chân lý đang chiếu soi cho mọi người”23 và cũng không mâu thuẫn với đức mến đang thúc bách các Ki-tô hữu “phải xử sự cách yêu thương, khôn ngoan, kiên nhẫn đối với những ai còn lầm lạc hay thiếu hiểu biết về vấn đề đức tin.”24
2105. 854, 898
Bổn phận phải dành cho Thiên Chúa sự tôn thờ đích thực liên quan đến con người xét theo cá nhân cũng như xã hội. Đây là “đạo lý truyền thống Công giáo về bổn phận luân lý của con người và của xã hội đối với tôn giáo thật và Hội Thánh duy nhất của Đức Ki-tô.”25 Khi không ngừng loan báo Tin Mừng cho con người, Hội Thánh cố gắng làm sao để con người “có thể làm cho tinh thần Ki-tô Giáo thấm nhuần vào các tâm trí, phong tục, luật lệ và cơ cấu của cộng đoàn nơi họ sống.”26 Bổn phận xã hội của các Ki-tô hữu là tôn trọng và khơi dậy nơi mỗi người tình yêu đối với chân lý và điều thiện hảo. Bổn phận này buộc họ phải truyền bá nền phụng tự của tôn giáo duy nhất và chân thật, đang tồn tại trong Hội Thánh Công giáo và tông truyền.27 Ki-tô hữu được mời gọi trở thành ánh sáng thế gian.28 Nhờ đó, Hội Thánh bày tỏ vương quyền của Đức Ki-tô trên vạn vật, đặc biệt là trên các xã hội loài người.29
2106. 160, 1782, 1738
“Trong vấn đề tôn giáo, không ai bị ép buộc phải hành động trái với lương tâm mình, cũng như không bị ngăn trở, để hành động theo lương tâm cách riêng tư hay công khai, hoặc một mình hoặc chung với những người khác, trong những giới hạn họ được phép.”30 Quyền này đặt nền trên chính bản tính của nhân vị, mà phẩm giá của họ cho họ được tự do để gắn bó với chân lý thần linh, một chân lý siêu việt trên trật tự trần thế. Do đó, quyền này “vẫn tồn tại cả nơi những người không thực hiện nghĩa vụ tìm kiếm và gắn bó với chân lý.”31
2107. “Nếu vì những hoàn cảnh đặc biệt, như trong một số dân tộc hiện nay, một tôn giáo nào đó được luật pháp nhà nước nhìn nhận cách đặc biệt, thì cần thiết là, đồng thời, mọi người vẫn phải công nhận và tôn trọng quyền tự do tôn giáo của mọi công dân cũng như của những cộng đồng tôn giáo khác.”32
2108. 1740
Quyền tự do tôn giáo không phải là sự cho phép về mặt luân lý để gắn bó với điều sai lạc33 cũng không là quyền được sai lạc,34 nhưng đây là quyền tự nhiên của nhân vị, quyền được tự do theo dân luật, nghĩa là, được chính quyền bảo vệ khỏi những áp lực bên ngoài, trong vấn đề tôn giáo, trong những giới hạn chính đáng. Quyền tự nhiên này phải được luật pháp xã hội công nhận, phải là một quyền công dân.35
2109. 2244, 1906
Quyền tự do tôn giáo, tự bản chất của nó, không thể là vô giới hạn,36 cũng không thể bị giới hạn chỉ vì lý do “trật tự công cộng” được quan niệm theo cách “duy thực nghiệm” hay “duy tự nhiên.”37 “Những giới hạn chính đáng” gắn liền với quyền tự do tôn giáo cho mỗi hoàn cảnh xã hội, phải được xác định bởi sự khôn ngoan chính trị, theo những đòi hỏi của công ích và được quyền bính dân sự xác nhận “theo những quy tắc pháp lý, phù hợp với trật tự luân lý khách quan.”38
III. “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta” (2110-2128)
2110. Điều răn thứ nhất cấm tôn kính những thần khác ngoài Chúa duy nhất, Đấng đã tự mặc khải cho dân Ngài. Điều răn này cấm sự mê tín và thái độ vô đạo. Sự mê tín, một cách nào đó, là sự thái quá một cách lệch lạc về tôn giáo. Vô đạo là một thiếu sót nghịch với nhân đức thờ phượng.
Mê tín (2111)
2111. Mê tín là sự lệch lạc trong cảm thức tôn giáo và trong cách thể hiện cảm thức này. Mê tín cũng có thể xảy ra ngay trong việc thờ phượng Thiên Chúa chân thật, chẳng hạn như gán một ý nghĩa ma thuật cho một số thực hành vốn chính đáng hay cần thiết. Nếu cho rằng chỉ cần đọc các lời kinh hay làm các dấu chỉ bí tích là có hiệu quả, bất chấp những tâm tình phải có bên trong, là người ta rơi vào mê tín.39
Thờ ngẫu tượng (2112-2114)
2112. 210
Điều răn thứ nhất lên án sự đa thần. Điều răn này đòi hỏi con người không được tin vào thần nào khác ngoài Thiên Chúa, không được tôn kính các thần linh nào khác ngoài Đấng duy nhất. Thánh Kinh luôn nhắc nhở phải từ bỏ các ngẫu tượng “chỉ là vàng bạc, chỉ do tay người thế tạo thành”, “có mắt có miệng, không nhìn không nói.”.. Các ngẫu tượng là hão huyền nên ai thờ ngẫu tượng sẽ trở thành hão huyền: “Kẻ làm ra hoặc tin ở tượng thần, cũng giống như chúng vậy” (Tv 115,4-5.8).40 Trái lại, Thiên Chúa là “Thiên Chúa Hằng Sống” (Gs 3,10),41 Đấng làm cho sống và can thiệp vào lịch sử.
2113. 398, 2534, 2289, 2473
Thờ ngẫu tượng không phải chỉ là những việc thờ phượng sai lạc của dân ngoại. Nó còn là cám dỗ thường xuyên đối với đức tin. Thờ ngẫu tượng cốt tại việc thần thánh hóa những gì không phải là Thiên Chúa. Thờ ngẫu tượng là khi con người tôn thờ và kính bái một thụ tạo thay vì Thiên Chúa, cho dù đó là thần linh hay ma quỷ (chẳng hạn đạo thờ Xa-tan), quyền lực, khoái lạc, chủng tộc, tổ tiên, Nhà Nước, tiền bạc, v.v… Chúa Giê-su dạy: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6,24). Rất nhiều vị tử đạo đã chết vì không chịu thờ lạy “Con Thú”,42 dù chỉ giả vờ thôi. Thờ ngẫu tượng là khước từ quyền chủ tể duy nhất của Thiên Chúa; vì vậy, nó không thể đi đôi với sự hiệp thông với Thiên Chúa.43
2114. Đời sống con người được thống nhất trong việc tôn thờ Đấng duy nhất. Điều răn dạy tôn thờ Chúa duy nhất đơn giản hóa con người và cứu họ khỏi sự phân tán vô hạn. Thờ ngẫu tượng là sự lệch lạc của cảm thức tôn giáo, một cảm thức vốn bẩm sinh nơi con người. Người thờ ngẫu tượng là người “gán ý niệm bất diệt về Thiên Chúa cho bất cứ thứ gì không phải là Thiên Chúa.”44
Bói toán và ma thuật (2115-2117)
2115. 305
Thiên Chúa có thể mặc khải tương lai cho các Tiên tri hay các Thánh khác của Ngài. Tuy vậy, thái độ đúng đắn của Ki-tô hữu cốt tại việc phó thác mình một cách đầy tin tưởng trong tay Chúa Quan Phòng về những gì liên quan đến tương lai, và từ bỏ mọi thứ tò mò không lành mạnh về vấn đề này. Tuy nhiên, không biết tiên liệu lại có thể là một sự thiếu trách nhiệm.
2116. Phải loại bỏ mọi hình thức bói toán: cậy nhờ Xa-tan hay ma quỷ, gọi hồn người chết hay những thực hành khác, là những việc người ta nghĩ cách sai lầm rằng sẽ “vén mở” được tương lai.45 Coi tử vi, chiêm tinh, xem chỉ tay, giải mộng, xin xăm, bói toán quá khứ vị lai, đồng bóng, là những hình thức biểu lộ ý muốn thống trị thời gian, lịch sử và cuối cùng là con người, và đồng thời, biểu lộ ước muốn liên minh với các thế lực bí ẩn. Những điều này là nghịch lại với sự cung kính và tôn trọng, được kết hợp với sự kính sợ đầy yêu mến, mà chúng ta phải dành cho một mình Thiên Chúa mà thôi.
2117. Các thực hành ma thuật hay pháp thuật mà người ta muốn dùng để chế ngự các sức mạnh bí ẩn, bắt chúng phục vụ mình và nắm được quyền lực siêu phàm trên người khác – dù là để chữa bệnh – đều nghịch lại nhân đức thờ phượng cách nghiêm trọng. Các việc này càng đáng lên án hơn, khi có dụng ý làm hại người khác, hay cậy nhờ đến sự can thiệp của ma quỷ. Mang bùa cũng là điều đáng trách. Chiêu hồn thường gồm các thực hành bói toán hay ma thuật. Hội Thánh cũng khuyên các tín hữu phải xa lánh việc đó. Khi dùng các phương thuốc, gọi là gia truyền, không được kêu cầu các quyền lực sự dữ, cũng không được lợi dụng sự cả tin của những người khác.
Vô tôn giáo (2118-2122)
2118. Điều răn thứ nhất của Thiên Chúa kết án những tội chính yếu của sự vô tôn giáo: hành động thử thách Thiên Chúa bằng lời nói hay việc làm, sự phạm thánh và sự mại thánh.
2119. 394, 2088
Hành động thử thách Thiên Chúa là dùng lời nói hay việc làm để thử sự tốt lành và sự toàn năng của Thiên Chúa. Đây là điều Xa-tan muốn thấy nơi Chúa Giê-su, khi xúi giục Người gieo mình từ trên nóc Đền Thờ xuống, và qua cử chỉ đó, ép buộc Thiên Chúa phải hành động.46 Chúa Giê-su dùng Lời Thiên Chúa đối lại nó: “Anh em đừng thách thức ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em” (Đnl 6,16). Thách đố, hàm chứa một sự thử thách như vậy, làm tổn thương lòng tôn kính và tin tưởng mà chúng ta phải dành cho Đấng Tạo hóa và là Chúa của chúng ta. Thử thách Thiên Chúa luôn hàm chứa thái độ hoài nghi về tình yêu của Ngài, sự quan phòng và quyền năng của Ngài.47
2120. 1374
Sự phạm thánh là sự xúc phạm hay có thái độ bất xứng đối với các bí tích và các hành động phụng vụ khác, và cả đối với các người, các đồ vật và các nơi đã thánh hiến cho Thiên Chúa. Sự phạm thánh là một tội nghiêm trọng, đặc biệt khi phạm đến bí tích Thánh Thể, bởi vì trong bí tích này, chính Mình Thánh Đức Ki-tô hiện diện một cách theo bản thể với chúng ta.48
2121. Sự mại thánh49 được định nghĩa là mua hay bán những thực tại thiêng liêng. Khi phù thủy Simon muốn mua quyền năng thiêng liêng mà ông thấy đang hoạt động nơi các Tông Đồ, thánh Phê-rô đã trả lời: “Tiền bạc của anh tiêu tan luôn với anh cho rồi, vì anh tưởng có thể lấy tiền mà mua ân huệ của Thiên Chúa” (Cv 8,20). Như thế, vị Tông Đồ đã hành động phù hợp với lời Chúa Giê-su: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”50 (Mt 10,8). Không thể chiếm lấy những của cải thiêng liêng cho mình và tùy ý sử dụng chúng như sở hữu chủ hay ông chủ của chúng, bởi vì những điều đó xuất phát từ nguồn mạch là Thiên Chúa. Con người chỉ có thể đón nhận cách nhưng không từ Thiên Chúa.
2122. “Ngoài những của dâng cúng do nhà chức trách có thẩm quyền ấn định, thừa tác viên không được xin gì để ban các bí tích, và luôn luôn phải liệu sao đừng để những người nghèo không được hưởng nhờ ơn các bí tích vì sự túng thiếu của mình.”51 Thẩm quyền Hội Thánh ấn định “những của dâng cúng” này theo nguyên tắc dân Ki-tô Giáo phải cấp dưỡng cho các thừa tác viên của Hội Thánh. “Thợ thì đáng được nuôi ăn”52 (Mt 10,10).
Vô thần (2123-2126)
2123. 29
“Có nhiều người đương thời với chúng ta không hề nhận ra hoặc khước từ cách minh nhiên tương quan mật thiết và sống động kết hợp con người với Thiên Chúa, cho nên vô thần phải được kể là một trong những vấn đề hệ trọng nhất trong thời đại này.”53
Bài này đã được xem 5660 lần!