2124. Từ “vô thần” chỉ nhiều hiện tượng rất khác nhau. Hình thức thông thường là chủ nghĩa duy vật thực tiễn; chủ nghĩa này giới hạn những nhu cầu và tham vọng của mình vào không gian và thời gian. Chủ nghĩa nhân bản vô thần, một cách sai lầm, coi con người “là mục đích cho chính mình, là người duy nhất làm nên và điều khiển lịch sử riêng của mình.”54 Một hình thức khác của chủ nghĩa vô thần hiện nay muốn giải phóng con người bằng cuộc giải phóng kinh tế và xã hội; “hình thức vô thần này cho rằng tự bản chất tôn giáo ngăn cản sự giải phóng đó, vì khi nêu lên cho con người niềm hy vọng vào cuộc sống hão huyền mai hậu, tôn giáo đã làm cho họ xao lãng việc xây dựng thành đô trần thế.”55
2125. 1735
Vô thần tự nó đối nghịch với nhân đức thờ phượng, vì từ chối hay phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa.56 Trách nhiệm về điều này có thể được giảm thiểu nhiều ít, vì các ý hướng và hoàn cảnh. Trong việc khai sinh và phổ biến sự vô thần, “các tín hữu có thể có một phần trách nhiệm không nhỏ, tùy mức độ, hoặc bởi xao lãng việc giáo dục đức tin, hoặc bởi trình bày sai lạc về giáo lý, hoặc do những thiếu sót trong đời sống tôn giáo, luân lý và xã hội. Phải nói rằng họ đã che giấu hơn là bày tỏ dung mạo đích thực của Thiên Chúa và của tôn giáo.”57
2126. 396, 154
Vô thần thường được đặt nền trên một quan niệm không đúng về quyền tự lập của con người, đến độ phủ nhận mọi lệ thuộc vào Thiên Chúa.58 Tuy nhiên, việc nhìn nhận Thiên Chúa không hề nghịch với phẩm giá con người, “vì phẩm giá đó được đặt nền và được kiện toàn nơi chính Thiên Chúa.”59 Hội Thánh biết rõ “sứ điệp của mình phù hợp với những ước muốn thầm kín nhất của trái tim con người.”60
Chủ thuyết bất khả tri (2127-2128)
2127. 36
Chủ thuyết bất khả tri có nhiều hình thức. Trong một số trường hợp, người theo chủ thuyết này không phủ nhận Thiên Chúa, mà trái lại, còn cho là có sự hiện hữu của một hữu thể siêu việt không thể tự mặc khải và không ai có thể nói được gì về hữu thể đó. Trong những trường hợp khác, người theo chủ thuyết này không đề cập đến sự hiện hữu của Thiên Chúa, vì cho rằng không thể chứng minh, xác nhận hay phủ nhận về sự hiện hữu đó.
2128. 1036
Đôi khi chủ thuyết bất khả tri có thể hàm chứa một cố gắng tìm kiếm nào đó về Thiên Chúa, nhưng cũng có thể biểu hiện một sự lãnh đạm thờ ơ, chạy trốn trước vấn đề tối hậu về sự hiện hữu, và một sự lười biếng của lương tâm luân lý. Chủ thuyết bất khả tri rất thường tương đương với sự vô thần thực hành.
IV. “Ngươi không được làm cho mình bất cứ hình tượng nào về Thiên Chúa…” (2129-2132) [1159-1162]
2129. 300, 2500
Mệnh lệnh thần linh bao hàm việc cấm mọi hình thức trình bày Thiên Chúa bằng bàn tay con người. Sách Đệ Nhị Luật giải thích: “Anh em đã không thấy hình bóng nào, ngày Chúa phán với anh em tại núi Hôreb từ trong đám lửa; vì thế, đừng có ra hư hỏng mà làm cho mình một tượng mang hình ảnh bất cứ cái gì…” (Đnl 4,15-16). Chính Thiên Chúa, Đấng tuyệt đối siêu việt, đã tự mặc khải cho Ít-ra-en. “Ngài là tất cả”, nhưng đồng thời, Ngài “vượt trên mọi công trình Ngài thực hiện” (Hc 43,29-30). Ngài là “tác giả của muôn vẻ đẹp” (Kn 13,3).
2130. Tuy nhiên, trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã truyền lệnh hay cho phép làm những hình ảnh, một cách biểu tượng sẽ đưa tới ơn cứu độ nhờ Ngôi Lời nhập thể: ví dụ con rắn đồng,61 Hòm Bia Giao Ước và các chêrubim.62
2131. 476
Công đồng chung thứ bảy, ở Ni-xê-a (năm 787), dựa vào mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, đã biện minh cho việc sùng kính ảnh tượng thánh, như ảnh tượng Đức Ki-tô, và cả ảnh tượng Mẹ Thiên Chúa, các Thiên thần và tất cả các Thánh, chống lại những người bài ảnh tượng. Nhờ cuộc Nhập thể của mình, Con Thiên Chúa đã khai mở một “nhiệm cục” về các ảnh tượng.
2132. Việc sùng kính của Ki-tô Giáo đối với các ảnh tượng, không nghịch lại điều răn thứ nhất cấm thờ ngẫu tượng. Thật vậy, “khi tôn kính một ảnh tượng, chúng ta hướng tâm hồn lên đến nguyên ảnh”,63 và “tôn kính một ảnh tượng là tôn kính chính vị được phác họa trong ảnh tượng.”64 Đối với các ảnh tượng thánh, chúng ta chỉ tôn kính (veneratio), chứ không tôn thờ (adoratio) là việc chỉ dành cho một mình Thiên Chúa:
“Sự sùng kính tôn giáo không nhắm tới các ảnh tượng vì chính chúng, như một thực tại nào đó, nhưng nhắm tới việc chúng là những hình ảnh đưa dẫn chúng ta đến cùng Thiên Chúa nhập thể. Việc tôn kính không dừng lại ở chính ảnh tượng, nhưng vươn tới điều mà ảnh tượng biểu thị.”65
Tóm lược (2133-2141)
2133. “Hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng, hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,5).
2134. Điều răn thứ nhất kêu gọi con người tin vào Thiên Chúa, trông cậy nơi Ngài và yêu mến Ngài trên hết mọi sự.
2135. “Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt 4,10). Thờ lạy Thiên Chúa, kêu cầu Ngài, dâng lên Ngài việc phụng thờ xứng hợp, chu toàn các lời khấn hứa với Ngài, là những hành vi thuộc nhân đức thờ phượng, phát xuất từ sự vâng phục điều răn thứ nhất.
2136. Phải dành cho Thiên Chúa việc phụng tự đích thực, là bổn phận của con người, xét theo cá nhân cũng như xã hội.
2137. Con người phải có quyền tự do tuyên xưng tôn giáo cách riêng tư và cách công khai.66
2138. Mê tín là sự lệch lạc trong việc thờ phượng phải dành cho Thiên Chúa thật. Mê tín được biểu lộ trong việc thờ ngẫu tượng, cũng như trong các hình thức bói toán và ma thuật.
2139. Điều răn thứ nhất cấm các tội của sự vô tôn giáo là: hành động thử thách Thiên Chúa bằng lời nói hay việc làm, sự phạm thánh và sự mại thánh.
2140. Sự vô thần, vì từ chối hay phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa, là một tội nghịch với điều răn thứ nhất.
2141. Việc sùng kính các ảnh tượng thánh đặt nền trên mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa. Việc đó không nghịch với điều răn thứ nhất.
Chú thích
2 X. Đnl 5,6-9.
3 X. Xh 19,16-25; 24,15-18.
4 Thánh Giustinô, Dialogus cum Tryphone Iudaeo, 11,1. CA 2,40 (PG 6,497).
5 Catechismus Romanus, 3, 2, 4: ed. P. Rodríguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 408-409.
6 X. Rm 1,5; 16,26.
7 X. Rm 1,18-32.
8 Bộ Giáo Luật, điều 751.
9 X. Đnl 6,4-5.
10 X. Lc 1,46-49.
11 Thánh Augustinô, De civitate Dei, 10, 6: CSEL 401,454-455 (PL 41,283).
12 X. Am 5,21-25.
13 X. Is 1,10-20.
14 X. Hs 6,6.
15 X. Dt 9,13-14.
16 Bộ Giáo Luật, điều 1191,1.
17 X. Cv 18,18; 21,23-24.
18 X. Bộ Giáo Luật, điều 654.
19 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 42: AAS 57 (1965) 48-49.
20 X. Bộ Giáo Luật, các điều 692.1196-1197.
21 CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 1: AAS 58 (1966) 930.
22 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 2: AAS 58 (1966) 931.
23 CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Nostra aetate, 2: AAS 58 (1966) 741.
24 CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 14: AAS 58 (1966) 940.
25 CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 1: AAS 58 (1966) 930.
26 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 13: AAS 58 (1966) 849.
27 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 1: AAS 58 (1966) 930.
28 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 13: AAS 58 (1966) 850.
29 X. ĐGH Lê-ô XIII, Thông điệp Immortale Dei : Leonis XIII Acta, 5, 118-150; ĐGH Pi-ô XI, Thông điệp Quas primas: AAS 17 (1925) 593-610.
30 CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 2: AAS 58 (1966) 930; x. Id., Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 26: AAS 58 (1966) 1046.
31 CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 2: AAS 58 (1966) 931.
32 CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 6: AAS 58 (1966) 934.
33 X. ĐGH Lê-ô XIII, Thông điệp Libertas praestantissimum: Leonis XIII Acta 8,229-230.
34 X. ĐGH Pi-ô XII, Allocutio iis qui interfuerunt Conventui quinto nationali Italico Unionis Iurisconsultorum catholicorum (6/12/1953): AAS 45 (1953) 799.
35 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 2: AAS 58 (1966) 930-931.
36 X. ĐGH Pi-ô VI, Breve Quod aliquantum (10/3/1791): Collectio Brevium atque Instructionum SS. D. N. Pii Papae VI… (Romae 1800) 54-55.
37 X. ĐGH Pi-ô IX, Thông điệp Quanta cura: DS 2890.
38 CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 7: AAS 58 (1966) 935.
39 X. Mt 23,16-22.
40 X. Is 44,; Gr 10,1-16; Đn 14,1-30; Br 6; Kn 13,1 – 15,19.
41 X. Tv 42,3.
42 X. Kh 13-14.
43 X. Gl 5,20; Ep 5,5.
44 Ôrigiênê, Contra Celsum, 2, 40: SC 132,378 (PG 11,861).
45 X. Đnl 18,10; Gr 29,8.
46 X. Lc 4,9.
47 X. 1 Cr 10,9; Xh 17,2-7; Tv 95,9.
48 X. Bộ Giáo Luật, các điều 1367.1376.
49 X. Cv 8,9-24.
50 X. Is 55,1.
51 Bộ Giáo Luật, điều 848.
52 X. Lc 10,7; 1 Cr 9,4-18; 1 Tm 5,17-18.
53 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 19: AAS 58 (1966) 1039.
54 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 20: AAS 58 (1966) 1040.
55 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 20: AAS 58 (1966) 1040.
56 X. Rm 1,18.
57 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 19: AAS 58 (1966) 1039.
58 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 20: AAS 58 (1966) 1040.
59 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 21: AAS 58 (1966) 1040.
60 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 21: AAS 58 (1966) 1042.
61 X. Ds 21,4-9; Kn 16,5-14; Ga 3,14-15.
62 X. Xh 25,10-22; 1 V 6,23-28; 7,23-26.
63 Thánh Ba-si-li-ô Cả, Liber de Spiritu Sancto, 18, 45: SC 17bis, 406 (PG 32,149).
64 CĐ Ni-xê-a II, Definitio de sacris imaginibus: DS 601; x. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 25a, Decretum de invocatione, veneratione et reliquiis sanctorum, et sacris imaginibus: DS 1821-1825; CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 125: AAS 56 (1964) 132; Id., Hiến chế tín lý Lumen gentium, 67: AAS 57 (1965) 65-66.
65 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, II-II, q. 81, a. 3, ad 3: Ed. Leon. 9, 180.
66 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 15: AAS 58 (1966) 940.
Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)
“Ngươi không được dùng danh Chúa, Thiên Chúa của ngươi một cách bất xứng”67 (Xh 20,7). “Anh em còn nghe luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề… còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả” (Mt 5,33-34).
I. Danh Thiên Chúa là thánh (2142-2149) [2807-2815]
2142. Điều răn thứ hai dạy phải tôn kính Danh Chúa. Cũng như điều răn thứ nhất, điều răn này thuộc về nhân đức thờ phượng và, một cách đặc biệt hơn, quy định việc sử dụng ngôn từ của chúng ta trong các vấn đề thánh.
2143. 203, 435
Trong tất cả các lời mặc khải, có một lời độc đáo, đó là lời mặc khải về Danh của Chúa. Thiên Chúa trao phó Danh Ngài cho những kẻ tin vào Ngài; Ngài tự mặc khải cho họ trong mầu nhiệm bản thân Ngài. Việc ban tặng Danh Thánh thuộc lãnh vực tín nhiệm và thân thiết. “Danh Chúa là thánh.” Vì vậy, con người không thể lạm dụng Danh đó. Họ phải ghi nhớ Danh đó trong sự thinh lặng tôn thờ đầy yêu mến.68 Chỉ được nhắc đến Danh Chúa trong lời nói của mình để chúc tụng, ca ngợi và tôn vinh Danh Chúa.69
2144. Sự tôn kính Danh Chúa diễn tả lòng tôn kính cần phải có đối với mầu nhiệm của chính Thiên Chúa và đối với mọi thực tại thánh thiêng mà mầu nhiệm này gợi lên. Cảm thức về sự thánh thiêng thuộc nhân đức thờ phượng:
“Cảm thức kính sợ và cảm thức về sự thánh thiêng có phải là những cảm thức Ki-tô Giáo không? Không ai có thể hoài nghi cách hữu lý về vấn đề này. Đó là những cảm thức mà chúng ta có, và có một cách mãnh liệt, nếu chúng ta được chiêm ngắm Thiên Chúa uy linh. Đó là những cảm thức mà chúng ta có, nếu chúng ta ý thức sự hiện diện của Ngài. Chúng ta phải có những cảm thức đó, tùy theo mức độ chúng ta tin Ngài đang hiện diện. Không có những cảm thức đó, tức là không ý thức vấn đề này, không tin Ngài đang hiện diện.”70
2145. 2472, 427
Tín hữu phải làm chứng cho Danh Chúa, bằng cách tuyên xưng đức tin của mình mà không sợ sệt.71 Việc rao giảng và dạy giáo lý phải được thấm nhuần bằng sự tôn thờ và kính trọng đối với Danh Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta.
2146. Điều răn thứ hai cấm lạm dụng Danh Thiên Chúa, nghĩa là mọi cách sử dụng bất xứng đối với Danh của Thiên Chúa, của Chúa Giê-su Ki-tô, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và toàn thể các Thánh.
2147. 2101
Những lời hứa với tha nhân nhân danh Thiên Chúa đều liên hệ đến danh dự, sự trung tín, sự chân thật và quyền bính thần linh. Những lời hứa đó phải được tuân giữ bởi đức công bằng. Không giữ các lời hứa đó là lạm dụng Danh Thiên Chúa, và một cách nào đó, làm cho Thiên Chúa thành kẻ nói dối.72
2148. 1756
Nói phạm thượng vi phạm trực tiếp điều răn thứ hai. Tội này cốt tại việc nói những lời căm ghét, than trách, thách đố – trong lòng hay ngoài miệng – nghịch với Thiên Chúa, việc nói xấu Thiên Chúa, việc bất kính đối với Ngài trong lời nói, và việc lạm dụng Danh Thiên Chúa. Thánh Gia-cô-bê khiển trách: “Chẳng phải họ nói xúc phạm đến Danh Thánh cao đẹp (của Chúa Giê-su) mà anh em được mang đó sao?” (Gc 2,7). Luật cấm nói phạm thượng, cũng cấm nói những lời nghịch với Hội Thánh của Đức Ki-tô, các Thánh và những sự thánh. Cũng là tội nói phạm thượng khi nại đến Danh Thiên Chúa để che đậy những hành vi tội ác, để bắt các dân tộc làm nô lệ, để tra tấn hoặc giết người. Lạm dụng Danh Thiên Chúa để phạm tội ác là gây cớ cho người ta khước từ tôn giáo. Nói phạm thượng là nghịch với sự tôn trọng phải có đối với Thiên Chúa và Danh thánh của Ngài.
Nói phạm thượng tự bản chất là một tội nghiêm trọng.73
2149. Kêu tên Chúa vô cớ, dù không có ý phạm thượng cũng là thiếu tôn kính đối với Chúa. Điều răn thứ hai cũng cấm sử dụng Danh Thiên Chúa vào việc ma thuật. “Danh Thiên Chúa thật cao cả, khi được kêu cầu cách tôn kính, xứng với sự vĩ đại và uy nghi của Ngài.
Danh Thiên Chúa là thánh, khi được kêu cầu với lòng tôn kính và sợ xúc phạm tới Ngài.”74
II. Kêu Danh Chúa cách gian dối (2150-2155)
2150. Điều răn thứ hai cấm thề gian. Thề là lấy Thiên Chúa làm chứng cho điều mình xác quyết, là kêu cầu sự chân thật thần linh làm bảo chứng cho sự chân thật của mình. Lời thề ràng buộc Danh Chúa. “Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải kính sợ; chính Ngài là Đấng anh em phải phụng thờ; anh em sẽ nhân danh Ngài mà thề” (Đnl 6,13).
2151. 215
Việc loại trừ thói thề gian là một bổn phận đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa, với tư cách là Đấng Tạo hóa và là Chúa, là quy luật của mọi chân lý. Lời nói của con người có thể phù hợp hay trái nghịch với Thiên Chúa, Đấng là chân lý. Lời thề, khi là chân thật và chính đáng, làm sáng tỏ mối tương quan giữa lời nói của con người với chân lý của Thiên Chúa. Lời thề gian là kêu cầu Thiên Chúa làm chứng cho sự dối trá.
2152. 2476, 1756
Người bội thề là người dùng lời thề để hứa một điều gì, nhưng không có ý chu toàn lời đã hứa, hay sau khi đã dùng lời thề để hứa, lại không giữ lời hứa. Sự bội thề là lỗi phạm nghiêm trọng về lòng tôn kính đối với Chúa của mọi lời nói. Buộc mình bằng việc thề làm điều xấu là nghịch với sự thánh thiện của Danh Chúa.
2153. 2466
Trong bài giảng trên núi, Chúa Giê-su đã trình bày điều răn thứ hai: “Anh em còn nghe luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề nhưng hãy trọn lời thề với Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, đừng thề chi cả… Nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’; ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,33-34.37).75 Chúa Giê-su dạy mọi lời thề đều bao hàm mối tương quan với Thiên Chúa, và trong mọi lời nói, phải tôn trọng sự hiện diện của Thiên Chúa và chân lý của Ngài. Cẩn trọng khi nại đến Thiên Chúa trong lời ăn tiếng nói, phải đi đôi với sự chú ý đầy tôn kính đối với sự hiện diện của Ngài: trong mỗi lời xác quyết của chúng ta, chúng ta làm chứng hoặc khinh thường sự hiện diện đó.
2154. Theo gương thánh Phao-lô76 truyền thống Hội Thánh vẫn hiểu lời của Chúa Giê-su là không cấm thề nếu có lý do nghiêm trọng và chính đáng (chẳng hạn, trước tòa án). “Lời thề tức là lời kêu cầu Danh Chúa làm chứng cho chân lý, chỉ có thể được tuyên thệ trong sự thật, trong sự suy xét và trong công lý.”77
2155. 1903
Sự thánh thiện của Danh thánh đòi buộc không được nại đến Danh đó mà làm những việc phù phiếm, và không được thề trong những hoàn cảnh có thể bị giải thích như là đồng tình với quyền lực đòi buộc thề cách bất công. Khi bị chính quyền bất hợp pháp đòi buộc phải thề, có thể từ chối. Phải từ chối thề, khi được yêu cầu thề vì những mục đích nghịch với nhân phẩm hay nghịch với sự hiệp thông trong Hội Thánh.
III. Danh hiệu Ki-tô hữu [Tên Thánh] (2156-2159)
2156. 232, 1267
Bí tích Rửa Tội được ban “nhân danh Cha, Con và Thánh Thần” (Mt 28,19). Trong Phép Rửa, Danh Chúa thánh hóa con người, và Ki-tô hữu nhận được một tên riêng trong Hội Thánh. Tên này có thể là tên của một vị Thánh nào đó, nghĩa là, của một môn đệ đã sống đời trung thành mẫu mực với Chúa. Vị thánh bổn mạng nêu gương sống đức mến và luôn chuyển cầu cho ta. “Tên thánh” cũng có thể diễn tả một mầu nhiệm hay một nhân đức Ki-tô Giáo nào đó. “Cha mẹ, những người đỡ đầu và cha sở phải liệu sao để đừng đặt tên xa lạ với ý nghĩa Ki-tô Giáo.”78
2157. 1235, 1668
Ki-tô hữu bắt đầu một ngày của mình, các kinh nguyện và hoạt động của mình bằng dấu thánh giá “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. A-men.” Người đã chịu Phép Rửa dâng trọn vẹn ngày mình sống để tôn vinh Thiên Chúa và kêu cầu Đấng Cứu Độ ban ân sủng giúp họ hành động trong Thần Khí như một người con của Chúa Cha. Dấu thánh giá làm cho chúng ta nên mạnh mẽ trong các cơn cám dỗ và trong những khó khăn.
2158. Thiên Chúa gọi từng người bằng tên của họ.79 Tên của mỗi người là thánh thiêng. Tên là hình ảnh của nhân vị. Nó đòi hỏi được tôn trọng, như dấu chỉ phẩm giá của người mang tên đó.
2159. Mỗi người sẽ mang tên của mình mãi mãi. Trong Vương quốc, phẩm chất huyền nhiệm và độc đáo của mỗi nhân vị, đã được ghi dấu bằng Danh Thiên Chúa, sẽ tỏa sáng trọn vẹn. “Ai thắng… Ta cũng sẽ ban cho nó một viên sỏi trắng, trên sỏi đó có khắc một tên mới; chẳng ai biết được tên ấy, ngoài kẻ lãnh nhận” (Kh 2,17). “Kìa Con Chiên đứng trên núi Xi-on, cùng với Con Chiên, có một trăm bốn mươi bốn ngàn người mang danh của Con Chiên và của Cha Con Chiên ghi trên trán” (Kh 14,1).
Tóm lược (2160-2167)
2160. “Lạy Chúa, là Chúa chúng con, lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu” (Tv 8,2).
2161. Điều răn thứ hai dạy phải tôn kính Danh Chúa. Danh Chúa là thánh.
2162. Điều răn thứ hai cấm mọi lạm dụng bất xứng đối với Danh Thiên Chúa. Nói phạm thượng là tội sử dụng Danh của Thiên Chúa, của Chúa Giê-su Ki-tô, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và các Thánh một cách xúc phạm.
2163. Thề gian là kêu cầu Thiên Chúa làm chứng cho một điều dối trá. Bội thề là một lỗi phạm nghiêm trọng đối với Chúa, Đấng luôn trung tín với các lời Ngài đã hứa.
2164. “Đừng thề nhân danh Đấng Tạo Hóa, cũng đừng thề nhân danh thụ tạo, trừ khi hội đủ ba điều này: ta nói lên sự thật, vì nhu cầu, và với lòng kính trọng.”80
2165. Qua bí tích Rửa Tội, Ki-tô hữu nhận được một tên riêng trong Hội Thánh. Cha mẹ, người đỡ đầu và cha sở cần lưu tâm để đặt cho họ một tên Ki-tô Giáo. Vị thánh bổn mạng nêu gương sống đức mến và luôn chuyển cầu cho ta.
2166. Ki-tô hữu bắt đầu các kinh nguyện và hoạt động của mình bằng dấu thánh giá “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. A-men.”
2167. Thiên Chúa gọi từng người bằng tên của họ.81
Chú thích
67 X. Đnl 5,11.
68 X. Gcr 2,17.
69 X. Tv 29,2; 96,2; 113,1-2.
70 John Henri Newman, Parochial and Plain Sermons, v. 5, Sermon 2 [Reverence, a Belief in God’s Presence] (Westminster 1967) 21-22.
71 X. Mt 10,32; 1 Tm 6,12.
72 X. 1 Ga 1,10.
73 X. Bộ Giáo Luật, điều 1369.
74 Thánh Augustinô, De sermone Domini in monte, 2, 5, 19: CCL 35,109 (PL 34,1278).
75 X. Gc 5,12.
76 X. 2 Cr 1,23; Gl 1,20.
77 Bộ Giáo Luật, điều 1199,1.
78 Bộ Giáo Luật, điều 855.
79 X. Is 43,1; Ga 10,3.
80 Thánh I-nha-xi-ô Lôyôla, Exercitia spiritualia, 38: MHSI 100,174.
81 X. Is 43,1.
Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)
“Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào” (Xh 20,8-10).82 “Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sa-bát” (Mc 2,27-28).
I. Ngày sa-bát (2168-2173) [346-348]
2168. Điều răn thứ ba của Mười Điều Răn nhắc nhớ sự thánh thiện của ngày sa-bát. “Ngày thứ bảy là một ngày sa-bát; một ngày nghỉ hoàn toàn, dâng Chúa ” (Xh 31,15).
2169. 2057
Khi nói về ngày sa-bát, Sách Thánh nhắc nhớ công trình tạo dựng. “Vì trong sáu ngày, ĐỨC CHÚA đã dựng nên trời đất, biển khơi và muôn loài trong đó, nhưng Ngài đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, ĐỨC CHÚA đã chúc phúc cho ngày sa-bát và coi đó là ngày thánh” (Xh 20,11).
Bài này đã được xem 5592 lần!