IV. Gia đình và Nước Trời (2232-2233)
2232. 1618
Các mối liên hệ trong gia đình dù quan trọng, nhưng không phải tuyệt đối. Cũng như đứa trẻ tăng trưởng trong sự trưởng thành và sự tự lập về mặt nhân bản và thiêng liêng, thì cũng vậy, ơn gọi riêng của nó, ơn gọi đến từ Thiên Chúa, cũng được khẳng định một cách rõ ràng hơn và mạnh mẽ hơn. Cha mẹ phải tôn trọng ơn gọi này và khuyến khích con cái đáp trả bằng việc đi theo ơn gọi đó. Phải xác tín rằng ơn gọi thứ nhất của Ki-tô hữu là đi theo Chúa Giê-su23. “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai, con gái hơn Thầy thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37).
2233. 542
Trở thành môn đệ Chúa Giê-su là chấp nhận lời mời gọi thuộc về gia đình Thiên Chúa, sống theo cách sống của Người: “Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12,50).
Cha mẹ phải đón nhận và tôn trọng, với tâm tình vui mừng và tạ ơn, ơn gọi mà Chúa dành cho một người nào đó trong số con cái mình để đi theo Người trong sự trinh khiết vì Nước Trời, trong đời sống thánh hiến hay trong thừa tác vụ tư tế.
V. Quyền bính trong xã hội dân sự (2234-2246)
2234. 1897
Điều răn thứ tư cũng truyền dạy chúng ta phải tôn trọng tất cả những ai đã đón nhận từ Thiên Chúa một quyền bính trong xã hội để mưu ích cho chúng ta. Điều răn này soi sáng các bổn phận của những người thực thi quyền bính cũng như của cả những người được hưởng phúc lợi của quyền bính.
Bổn phận của quyền bính dân sự (2235-2237)
2235. 1899
Những ai thực thi một quyền bính nào đó, phải thực thi như một việc phục vụ: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20,26). Việc thực thi quyền bính được quy định về mặt luân lý bởi nguồn gốc thần linh, bản chất hợp lý và đối tượng đặc trưng của nó. Không ai có thể truyền lệnh hay thiết lập điều gì trái với nhân phẩm và luật tự nhiên.
2236. 2411
Việc thực thi quyền bính nhằm biểu lộ trật tự chính đáng của các giá trị giúp mọi người dễ dàng thực thi quyền tự do và trách nhiệm. Cấp trên phải khôn ngoan thực thi sự công bằng phân phối, bằng cách quan tâm đến những nhu cầu và phần đóng góp của mỗi người, và nhằm mưu cầu sự hòa thuận và bình an. Họ phải cảnh giác không để các chuẩn mực và quy định họ thiết lập, đưa đến cơn cám dỗ, là lợi ích cá vị đối nghịch với lợi ích của cộng đồng.24
2237. 357
Công quyền buộc phải tôn trọng các quyền lợi căn bản của nhân vị. Họ phải thực thi công bằng với lòng nhân đạo, trong khi tôn trọng quyền lợi của từng người, nhất là của các gia đình và của những người cùng khốn.
Các quyền lợi chính trị gắn liền với tư cách công dân, có thể và phải được công nhận theo các đòi hỏi của công ích. Các quyền ấy không thể bị công quyền đình chỉ khi không có lý do hợp pháp và tương xứng. Việc thực thi các quyền lợi chính trị được sắp xếp hướng tới công ích của quốc gia và của cộng đồng nhân loại.
Bổn phận của công dân (2238-2243)
2238. 1900
Những người phục tùng quyền bính phải coi cấp trên của mình như những người đại diện Thiên Chúa, Đấng đã đặt họ làm thừa tác viên phân phát các hồng ân của Ngài:25 “Vì Chúa, anh em hãy tuân phục mọi thể chế do loài người đặt ra… Hãy hành động như những người tự do, không phải như những người lấy sự tự do làm màn che sự gian ác, nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa” (1 Pr 2,13.16). Sự cộng tác trung thành của những người phục tùng quyền bính bao hàm quyền, đôi khi là bổn phận, phải lên tiếng phê phán cách công bằng những gì họ coi là có hại cho phẩm giá của các nhân vị và cho công ích.
2239. 1915, 2310
Bổn phận của các công dân là cộng tác với chính quyền dân sự để mưu ích cho xã hội trong tinh thần tôn trọng chân lý, công bằng, tình liên đới và sự tự do. Lòng yêu mến và sự phục vụ Tổ quốc phát xuất từ bổn phận của sự biết ơn và theo trật tự của đức mến. Việc tùng phục quyền bính hợp pháp và sự phục vụ công ích đòi hỏi các công dân thực thi nhiệm vụ của mình trong đời sống của cộng đồng chính trị.
2240. 2265, 1900
Việc tùng phục quyền bính và tinh thần đồng trách nhiệm đối với công ích đòi hỏi các công dân, về mặt luân lý, phải đóng thuế, thực thi quyền bầu cử và bảo vệ quê hương:
“Anh em nợ ai cái gì, hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính” (Rm 13,7).
Các Ki-tô hữu “cư ngụ trên quê hương riêng của mình, nhưng như những ngoại kiều; họ có chung mọi sự với những người khác, như các công dân, và chịu đựng mọi sự như những lữ khách… Họ tuân theo luật pháp thiết định nhưng cách sống của họ vượt trên luật pháp… Thiên Chúa đã dành cho họ một địa vị cao quý đến độ họ không bỏ đi được.”26
Thánh Tông Đồ cũng khuyến dụ chúng ta phải cầu nguyện và tạ ơn Chúa cho các vua và tất cả những người thực thi quyền bính, “để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh” (1 Tm 2,2).
2241. Những quốc gia giàu hơn buộc phải đón nhận, bao nhiêu có thể, những người nước ngoài đến tìm kiếm an ninh và sinh kế mà họ không có được nơi chính quê hương họ. Công quyền phải quan tâm tôn trọng quyền tự nhiên là luật đặt người khách dưới sự che chở của những ai đón nhận họ.
Vì công ích, chính quyền có thể quy định một số điều kiện pháp lý cho quyền nhập cư, nhất là đòi hỏi các người di cư phải tôn trọng các bổn phận đối với quốc gia đón nhận họ. Người nhập cư buộc phải tôn trọng, với lòng biết ơn, di sản vật chất và tinh thần của đất nước đón nhận họ, tuân thủ luật pháp và chia sẻ các nhiệm vụ trong nước đó.
2242. 1903, 2313, 450, 1901
Người công dân bị buộc theo lương tâm, không được tuân theo những chỉ thị của chính quyền dân sự, khi những mệnh lệnh đó đi ngược lại các đòi hỏi trong lãnh vực luân lý, các quyền lợi căn bản của con người hoặc các giáo huấn của Tin Mừng. Sự khước từ vâng phục chính quyền dân sự, khi những đòi hỏi của chính quyền dân sự đi ngược lại những đòi hỏi của lương tâm ngay thẳng, được biện minh bằng việc phải phân biệt giữa việc phục vụ Thiên Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị. “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21). “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29):
“Khi công quyền vượt quá quyền hạn của mình mà đàn áp các công dân, thì chính các công dân đừng từ chối những gì công ích đòi hỏi cách khách quan. Họ được phép bảo vệ các quyền lợi của mình và của đồng bào mình, chống lại sự lạm dụng của quyền bính này, với sự tôn trọng các giới hạn, mà Luật tự nhiên và Luật Tin Mừng đã vạch ra.”27
2243. 2309
Hành động dùng vũ khí chống lại sự áp bức của chính quyền là không hợp pháp, trừ khi đồng thời hội đủ các điều kiện sau đây: 1) Trong trường hợp chắc chắn các quyền lợi căn bản bị vi phạm một cách nghiêm trọng và kéo dài; 2) Sau khi đã dùng hết mọi phương cách khác; 3) Không gây ra những xáo trộn tệ hại hơn; 4) Có đủ cơ sở để hy vọng thành công tốt đẹp. 5) Không thể tiên liệu hợp lý được những giải pháp tốt hơn.
Cộng đồng chính trị và Hội Thánh (2244-2246)
2244. 1910, 1881, 2109
Mọi thể chế đều, ít là cách mặc nhiên, được cảm hứng bởi một tầm nhìn (visio) nào đó về con người và về vận mệnh của con người, từ đó, thể chế rút ra điểm quy chiếu cho các phán đoán của mình, bậc thang các giá trị và quy tắc hành động của mình. Đa số các xã hội xây dựng thể chế của mình dựa trên một sự ưu việt nào đó của con người trên các sự vật. Chỉ có tôn giáo được Thiên Chúa mặc khải, mới nhận biết cách rõ ràng rằng nguồn gốc và vận mệnh của con người ở nơi Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa và Cứu Chuộc. Hội Thánh mời gọi các chính quyền quy chiếu các phán đoán và quyết định của mình theo sự linh hứng của chân lý về Thiên Chúa và về con người.
Các xã hội không biết đến hay khước từ sự linh hứng này, nhân danh sự độc lập của mình đối với Thiên Chúa, đều đi tới chỗ tìm nơi chính mình hay vay mượn ở một ý thức hệ nào đó những điểm quy chiếu và vận mệnh của mình và, vì không chấp nhận cho người ta bảo vệ một tiêu chuẩn khách quan về điều tốt điều xấu, các xã hội ấy tự cho mình một quyền lực độc tài, một cách công khai hoặc ngấm ngầm, đối với con người và vận mệnh con người, như lịch sử đã cho thấy.28
2245. 912
“Do nhiệm vụ và thẩm quyền của mình, Hội Thánh không hề bị lẫn lộn với một cộng đồng chính trị… Hội Thánh vừa là dấu chỉ, vừa là người bảo vệ tính cách siêu việt của nhân vị.”29 Hội Thánh “tôn trọng và cổ võ sự tự do chính trị và trách nhiệm của các công dân.”30
2246. 2032, 2420
Hội Thánh có sứ vụ “đưa ra phán đoán luân lý, cả trong những vấn đề liên quan tới lãnh vực chính trị, khi các quyền lợi căn bản của con người hay ơn cứu độ các linh hồn đòi hỏi, bằng cách sử dụng mọi phương tiện và chỉ những phương tiện nào phù hợp với Tin Mừng và hòa hợp với lợi ích của mọi người, tùy theo các thời đại và các hoàn cảnh khác nhau.”31
Tóm lược (2247-2257)
2247. “Hãy thờ cha kính mẹ” (Đnl 5,16; Mc 7,10).
2248. Theo điều răn thứ tư, Thiên Chúa muốn rằng, sau Ngài, chúng ta phải tôn kính cha mẹ và những người được Ngài trao ban quyền bính để mưu ích cho chúng ta.
2249. Cộng đồng phu phụ được thiết lập trên giao ước và sự ưng thuận của đôi phối ngẫu. Hôn nhân và gia đình được sắp xếp hướng về lợi ích của đôi phối ngẫu, về việc sinh sản và giáo dục con cái.
2250. “Sự an sinh của nhân vị, của xã hội nhân loại và Ki-tô Giáo liên kết chặt chẽ với tình trạng tốt đẹp của cộng đồng hôn nhân và gia đình.”32
2251. Con cái phải tôn kính, biết ơn, vâng lời chính đáng và trợ giúp cha mẹ. Lòng hiếu thảo của con cái củng cố sự hài hòa của toàn bộ đời sống gia đình.
2252. Cha mẹ là những người đầu tiên có trách nhiệm giáo dục con cái về đức tin, về việc cầu nguyện và về mọi nhân đức. Bao nhiêu có thể, cha mẹ có bổn phận đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần của con cái mình.
2253. Cha mẹ phải tôn trọng và khuyến khích ơn gọi của con cái mình. Họ phải ý thức và dạy cho con cái biết rằng, đi theo Chúa Giê-su, là ơn gọi thứ nhất của Ki-tô hữu.
2254. Công quyền buộc phải tôn trọng các quyền lợi căn bản của nhân vị và các điều kiện để thực thi sự tự do của nhân vị.
2255. Các công dân có bổn phận phải cộng tác với quyền bính dân sự để xây dựng xã hội trong tinh thần tôn trọng chân lý, sự công bằng, tình liên đới và sự tự do.
2256. Theo lương tâm, công dân bắt buộc không được tuân theo các chỉ thị của quyền bính dân sự, khi những mệnh lệnh này đi ngược lại những đòi hỏi thuộc lãnh vực luân lý. “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29).
2257. Mọi xã hội đều quy chiếu các phán đoán và cách hành động của mình dựa trên một tầm nhìn (visio) nào đó về con người và vận mệnh của con người. Ngoài ánh sáng của Tin Mừng về Thiên Chúa và về con người, các xã hội sẽ dễ trở thành “độc tài.”
Chú thích
1 X. Mc 7,8-13.
2 X. Đnl 5,16.
3 X. Đnl 5,16.
4 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris consortio, 21: AAS 74 (1982) 105; x. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.
5 X. Ep 5,21 – 6,4; Cl 3,18-21; 1 Pr 3,1-7.
6 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 52: AAS 58 (1966) 1073.
7 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 47: AAS 58 (1966) 1067.
8 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 52: AAS 58 (1966) 1073.
9 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris consortio, 46: AAS 74 (1982) 137-138.
10 X. Ep 3,14.
11 X. Cn 1,8; Tb 4,3-4.
12 X. Xh 20,12.
13 X. Ep 6,1.
14 X. Mc 7,10-12.
15 CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Gravissimum educationis, 3: AAS 58 (1966) 731.
16 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris consortio, 36: AAS 74 (1982) 126.
17 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 36: AAS 83 (1991) 838.
18 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16; x. Bộ Giáo Luật, điều 1136.
19 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.
20 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 48: AAS 58 (1966) 1069.
21 X. Mt 18,21-22; Lc 17,4.
22 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Gravissimum educationis, 6: AAS 58 (1966) 733.
23 X. Mt 16,25.
24 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 25: AAS 83 (1991) 823.
25 X. Rm 13,1-2.
26 Epistula ad Diognetum, 5, 5; 5, 10; 6, 10: SC 33 62-66 (Funk 1,398-400).
27 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 74: AAS 58 (1966) 1096.
28 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 45-46: AAS 83 (1991) 849-851.
29 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 76: AAS 58 (1966) 1099.
30 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 76: AAS 58 (1966) 1099.
31 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 76: AAS 58 (1966) 1100.
32 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 47: AAS 58 (1966) 1067.
Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)
“Ngươi không được giết người” (Xh 20,13).
“Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: ‘Chớ giết người’. Ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa” (Mt 5,21-22).
2258. 356
“Sự sống con người phải được coi là điều linh thánh, vì từ lúc khởi đầu của mình, sự sống đó ‘đòi phải có hành động của Đấng Tạo Hoá’ và mãi mãi được liên kết một cách đặc biệt với Đấng Tạo Hóa, là cùng đích duy nhất của mình. Chỉ có Thiên Chúa là Chúa của sự sống từ khi sự sống khởi đầu cho tới khi kết thúc: không ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào, có thể dành cho mình quyền trực tiếp đem cái chết đến cho một thụ tạo nhân linh vô tội.”33
I. Tôn trọng sự sống con người (2259-2283)
Bằng chứng trong lịch sử thánh (2259-2262)
2259. 401
Trong trình thuật người anh là Ca-in giết em là A-ben,34 Sách Thánh cho thấy, ngay từ những buổi đầu của lịch sử nhân loại, đã có sự giận dữ và ham muốn nơi con người, đó là những hậu quả của nguyên tội. Con người trở thành kẻ thù của đồng loại mình. Thiên Chúa vạch rõ tính hiểm ác của tội huynh đệ tương tàn: “Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta. Giờ đây, ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra” (St 4,10-11).
2260. Giao ước giữa Thiên Chúa và loài người được dệt bằng những lời nhắc nhớ về hồng ân của Thiên Chúa là sự sống con người, và về bạo lực sát nhân của con người:
“Ta sẽ đòi mỗi người phải đền mạng sống của người anh em mình… Ai đổ máu con người, thì máu nó sẽ bị con người đổ ra, vì Thiên Chúa đã làm ra con người theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 9,5-6).
Cựu Ước luôn coi máu như dấu chỉ linh thánh của sự sống.35 Giáo lý này vẫn luôn là điều cần thiết cho mọi thời đại.
2261. 1756, 1956
Thánh Kinh xác định luật cấm của điều răn thứ năm: “Ngươi không được giết kẻ vô tội và công chính” (Xh 23,7). Cố ý giết một kẻ vô tội là một trọng tội chống lại phẩm giá của thụ tạo nhân linh, chống lại “khuôn vàng thước ngọc” (regula aurea) và sự thánh thiện của Đấng Tạo Hóa. Luật cấm giết người có giá trị phổ quát: bắt buộc mọi người và mỗi người, mọi lúc và mọi nơi.
2262. 2844
Trong Bài giảng trên núi, Chúa nhắc lại điều răn này: “Chớ giết người” (Mt 5,21), Người còn thêm vào đó lệnh cấm giận dữ, căm ghét và báo thù. Thậm chí Đức Ki-tô còn đòi hỏi môn đệ của Người phải đưa cả má bên kia,36 phải yêu kẻ thù của mình.37 Chính Người đã không tự vệ và bảo ông Phê-rô xỏ gươm vào bao.38
Sự tự vệ hợp pháp (2263-2267)
2263. 1737
Sự tự vệ hợp pháp của các cá vị và các tập thể không phải là một luật trừ đối với luật cấm giết người vô tội tức là việc giết người có chủ ý. “Hành vi của người tự vệ nguyên nó có thể có hậu quả kép: một đàng là để bảo tồn sự sống của chính mình; nhưng đàng khác lại có việc giết kẻ tấn công.”39 “Không gì cấm một hành vi có hai hậu quả, chỉ có một hậu quả là do chủ ý, còn hậu quả kia không do chủ ý.”40
2264. 2196
Tình yêu đối với chính mình vẫn luôn là nguyên tắc căn bản của luân lý. Vì vậy, làm thế nào để quyền được sống của chính mình được tôn trọng là điều hợp pháp. Ai bảo vệ mạng sống mình, thì không mắc tội giết người, mặc dầu có giáng một ngọn đòn chí tử vào kẻ tấn công. “Nếu ai bảo vệ mạng sống mình mà sử dụng bạo lực quá mức cần thiết, thì hành vi này sẽ là bất hợp pháp.
Còn nếu người đó đẩy lui bạo lực một cách chừng mực, thì đó sẽ là tự vệ hợp pháp… Cũng không nhất thiết là để được cứu, thì người ta phải từ khước hành vi tự vệ chừng mực, hầu tránh giết chết người khác: bởi vì người ta buộc phải lo cho sự sống của mình hơn là cho sự sống của người khác.”41
2265. 2240
Sự bảo vệ hợp pháp không những là một quyền, mà còn là một bổn phận quan trọng của người có trách nhiệm về sự sống của những người khác. Việc bảo vệ công ích đòi phải đặt kẻ xâm phạm bất chính ra ngoài khả năng tác hại. Vì vậy, những ai nắm quyền bính hợp pháp có quyền sử dụng cả đến vũ khí để ngăn chặn những kẻ xâm phạm đến cộng đồng dân sự đã được ủy thác cho trách nhiệm của họ.
2266. 1897-1898, 2308
Nỗ lực của Nhà Nước, nhằm giới hạn sự lan tràn những cách hành động làm tổn thương các quyền con người và những chuẩn mực nền tảng của sinh hoạt dân sự, đáp ứng với đòi hỏi bảo vệ công ích. Công quyền hợp pháp có quyền và có bổn phận đề ra những hình phạt tương xứng với tính nghiêm trọng của tội phạm. Hình phạt có mục tiêu đầu tiên là đền bù sự vô trật tự do lỗi lầm gây ra. Nếu phạm nhân tự nguyện chấp nhận, thì hình phạt có giá trị đền tội. Từ đó, ngoài việc bảo vệ trật tự công cộng và an ninh cho các nhân vị, hình phạt còn có mục tiêu chữa trị: hình phạt, trong mức độ bao nhiêu có thể, phải góp phần cải hóa phạm nhân.
2267. 2306
Việc chính quyền hợp pháp sử dụng án tử hình, sau khi đã xét xử công minh, từ lâu đã được xem như một giải pháp xứng hợp với tính trầm trọng của một số tội ác, và một phương thế bảo vệ công ích có thể chấp nhận được, dù rất khắc nghiệt.
Tuy nhiên ngày nay, chúng ta ngày càng ý thức rằng phẩm giá của con người không bị mất đi ngay cả sau khi họ đã phạm những tội ác rất trầm trọng. Hơn nữa, một sự hiểu biết mới mẻ về ý nghĩa của các án phạt hình sự được nhà nước áp dụng đã rõ nét hơn. Sau cùng, những hệ thống cầm tù hữu hiệu hơn đã được phát triển, bảo đảm quyền an ninh của công dân, nhưng đồng thời cũng không tước đi cách vĩnh viễn khả năng hoán cải của phạm nhân.
Bài này đã được xem 5596 lần!