Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể (2297-2298)
2297. Nạn bắt cóc và giữ làm con tin gieo kinh hoàng và, bằng những đe dọa, tạo áp lực không thể chịu nổi cho các nạn nhân. Những việc này là bất hợp pháp về mặt luân lý. Khủng bố đe dọa, gây thương tích và giết người cách bừa bãi; việc này đi ngược lại sự công bằng và bác ái cách nghiêm trọng. Tra tấn, tức là dùng bạo lực về thể lý hay luân lý để điều tra, để trừng phạt tội phạm, để đe dọa đối phương, để thỏa mãn lòng thù ghét, là nghịch với sự tôn trọng con người và phẩm giá con người. Ngoài những trường hợp được thực hiện thật sự vì lý do trị liệu, việc cắt bỏ, hủy hoại hoặc triệt sản có chủ ý một cách trực tiếp trên những người vô tội đều nghịch với luật luân lý.63
2298. 2267
Trong quá khứ các chính phủ hợp pháp thường sử dụng những biện pháp tàn bạo để duy trì lề luật và trật tự, mà thường các mục tử của Hội Thánh đã không phản kháng việc đó; chính những vị này còn áp dụng các quy định của bộ luật Rô-ma về tra tấn trong tòa án riêng của mình. Không kể những sự kiện đáng tiếc đó, Hội Thánh luôn luôn dạy bổn phận phải nhân từ và thương xót; Hội Thánh đã cấm các giáo sĩ không được gây đổ máu. Thời gian gần đây, người ta thấy rõ là các biện pháp tàn bạo đó không cần thiết cho trật tự công cộng, cũng chẳng phù hợp với những quyền hợp pháp của con người. Trái lại, những biện pháp đó còn đưa đến những suy thoái tồi tệ nhất. Phải đấu tranh để hủy bỏ những biện pháp tàn bạo đó. Phải cầu nguyện cho các nạn nhân và các lý hình.
Tôn trọng người chết (2299-2301)
2299. 1525
Phải lưu tâm và chăm sóc những người hấp hối để giúp họ sống những giây phút cuối đời của mình cách xứng đáng và bình an. Họ phải được thân nhân giúp đỡ bằng lời cầu nguyện. Những người này phải liệu sao cho bệnh nhân kịp thời lãnh nhận các bí tích để chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống.
2300. 1681-1690
Thi hài của những người đã qua đời phải được cư xử với lòng tôn trọng và với đức mến, trong đức tin và đức cậy vào sự phục sinh. Mai táng người chết là công việc của lòng thương xót đối với thân thể con người;64 việc đó tỏ lòng quý trọng con cái Thiên Chúa, là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
2301. Việc mổ và khám nghiệm tử thi có thể được chấp nhận về mặt luân lý, với lý do để điều tra pháp lý hoặc nghiên cứu khoa học. Việc hiến tặng nhưng không các bộ phận cơ thể sau khi chết là hợp pháp và có thể là có công phúc.
Hội Thánh cho phép hỏa táng nếu việc này không biểu lộ sự hoài nghi về đức tin vào sự phục sinh của thân xác.65
III. Bảo vệ hòa bình (2302-2317)
Hòa bình (2302-2306)
2302. 1765
Khi nhắc lại điều răn: “Chớ giết người” (Mt 5,21), Chúa chúng ta đòi chúng ta giữ trái tim bình an và Người tố cáo tính vô luân của việc giận dữ và sự căm ghét.
Giận dữ là một ước muốn trả thù. “Ước muốn báo thù vì điều xấu của kẻ đáng bị phạt, là không hợp pháp”: nhưng bắt phải đền bù “nhằm sửa chữa lại các thói xấu và duy trì điều tốt của đức công bằng” là điều đáng khen ngợi.66 Nếu giận dữ đến độ chủ ý muốn giết chết hay làm bị thương nặng người lân cận, là xúc phạm đến đức mến một cách nghiêm trọng; đó là tội trọng. Chúa nói: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa” (Mt 5,22).
2303. 2094, 1933
Căm ghét có chủ ý là điều nghịch với đức mến. Căm ghét người lân cận là có tội, khi một người chủ ý muốn điều xấu cho người khác. Căm ghét người lân cận là có tội nặng, khi một người chủ ý muốn cho người khác bị thiệt hại nghiêm trọng. “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,44-45).
2304. 1909, 1807
Sự tôn trọng và sự phát triển đời sống con người đòi phải có hòa bình. hòa bình không phải chỉ là vắng bóng chiến tranh, và không thể giản lược vào việc giữ được thế quân bình giữa các lực lượng đối nghịch nhau. hòa bình không thể có được trên trái đất, nếu không có sự bảo vệ của cải của các nhân vị, không có sự truyền thông tự do giữa con người, không có sự tôn trọng phẩm giá của con người và của các dân tộc, không có sự chuyên chăm thực thi tình huynh đệ. hòa bình là “sự ổn định của trật tự.”67 hòa bình là “sự nghiệp của đức công minh” (Is 32,17) và là hiệu quả của đức mến.68
2305. 1468
Hòa bình trên trần thế là hình ảnh và hoa trái của bình an của Đức Ki-tô, “Thủ lãnh Hòa Bình” thời Mê-si-a (Is 9,5). Nhờ máu đổ ra “trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù hận” ngay trong thân xác Người,69 Người đã giao hòa loài người với Thiên Chúa và làm cho Hội Thánh trở thành bí tích hợp nhất nhân loại và kết hợp nhân loại với Thiên Chúa.70 “Chính Người là bình an của chúng ta” (Ep 2,14). Người tuyên bố: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình” (Mt 5,9).
2306. 2267
Những ai khước từ hành động bạo lực và đổ máu, sử dụng những phương tiện tự vệ vừa tầm những kẻ khá yếu đuối, để bảo vệ quyền lợi của con người, là những người làm chứng cho đức mến của Tin Mừng, miễn là điều này không phương hại đến các quyền lợi và bổn phận của những người khác và các tập thể khác. Họ làm chứng cách hợp pháp cho tính nghiêm trọng của những nguy cơ về thể lý và luân lý, khi sử dụng bạo lực, với những tàn phá và chết chóc của bạo lực.71
Tránh chiến tranh (2307-2317)
2307. Điều răn thứ năm cấm chủ ý hủy hoại mạng sống con người. Vì mọi cuộc chiến đều kéo theo những tai họa và những bất công, nên Hội Thánh khẩn thiết thúc giục mỗi người cầu nguyện và hành động, để lòng nhân lành của Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ ngàn đời của chiến tranh.72
2308. 2266
Mỗi công dân và mỗi người lãnh đạo đều buộc phải hành động để tránh chiến tranh.
Tuy nhiên, “bao lâu nguy cơ chiến tranh tồn tại, bao lâu chưa có quyền bính quốc tế nào có thẩm quyền và có đủ sức mạnh, thì một khi đã tận dụng mọi phương thế dàn xếp ôn hòa, các chính phủ có thể được phép sử dụng quyền bảo vệ hợp pháp.”73
2309. 2243, 1897
Phải xem xét cẩn thận các điều kiện tỉ mỉ để bảo vệ hợp pháp bằng sức mạnh quân sự. Một quyết định như thế rất nghiêm trọng, nên phải hội đủ các điều kiện nghiêm ngặt của tính hợp pháp về luân lý. Cùng một trật, đòi phải có:
– Thiệt hại do kẻ xâm lược gây ra cho quốc gia hoặc cho cộng đồng các quốc gia có tính lâu dài, nghiêm trọng và chắc chắn;
– Tất cả các phương thế khác để chấm dứt tình trạng này rõ ràng là bất khả hoặc vô hiệu;
– Phải hội đủ các điều kiện quan trọng để thành công;
– Việc sử dụng vũ khí không kéo theo những tai hại và hỗn loạn nghiêm trọng hơn tai hại ta đang cố loại trừ. Khả năng tàn phá của các phương tiện chiến tranh hiện đại là sức ép nghiêm trọng nhất phải được thẩm định trong điều kiện nầy.
Trên đây là những yếu tố truyền thống được liệt kê trong học thuyết “chiến tranh chính đáng.” Việc thẩm định các điều kiện đó để có tính hợp pháp về luân lý, thuộc về sự phán đoán khôn ngoan của những người có bổn phận về công ích.
2310. 2239, 1909
Trong trường hợp này, công quyền có quyền và bổn phận đề ra cho các công dân những nghĩa vụ cần thiết để bảo vệ tổ quốc. Những ai phục vụ tổ quốc trong quân đội, là những người phụng sự cho an ninh và tự do của các dân tộc. Khi chu toàn đúng đắn nhiệm vụ của mình, họ thật sự góp phần vào công ích và vào việc gìn giữ hòa bình.74
2311. 1782, 1790
Công quyền phải dự liệu một cách công bằng cho trường hợp những người, vì lý do lương tâm, từ chối sử dụng vũ khí, trong khi họ vẫn buộc phải phục vụ cộng đồng nhân loại bằng một hình thức khác.75
2312. Hội Thánh và lý trí con người đều tuyên bố hiệu lực trường tồn của luật luân lý, trong thời gian xảy ra các cuộc xung đột có vũ trang. “Không phải vì chiến tranh đã chẳng may khai diễn, mà do đó các phía đối nghịch nhau được phép muốn làm gì thì làm.”76
2313. 2242
Phải tôn trọng và đối xử cách nhân đạo với thường dân, thương binh và tù binh.
Những hành động chủ ý nghịch với quyền của các dân tộc và với các nguyên tắc phổ quát của quyền đó, và cả các mệnh lệnh buộc thi hành những hành động đó, đều là tội ác. Sự tuân phục mù quáng không đủ để những ai tuân hành các mệnh lệnh đó được tha thứ. Như vậy, việc tiêu diệt một dân tộc, một quốc gia hoặc một nhóm dân thiểu số phải bị kết án như một tội trọng. Bổn phận luân lý đòi buộc phải chống lại các lệnh truyền “diệt chủng.”
2314. “Mọi hành động hiếu chiến nhằm tiêu diệt một cách không phân biệt toàn thể những thành phố hoặc những vùng rộng lớn cùng với dân cư ở đó, đều là tội ác chống lại Thiên Chúa và chính con người, phải bị kết án cách mạnh mẽ và không do dự.”77 Nguy cơ của chiến tranh hiện đại là tạo dịp cho những người sở hữu các vũ khí khoa học, đặc biệt là vũ khí nguyên tử, sinh học hoặc hóa học, phạm những thứ tội ác như thế.
2315. Thật là nghịch lý, nhiều người xem việc tích lũy vũ khí như một phương thế để can ngăn đối phương khỏi gây chiến. Họ coi đó là phương thế hữu hiệu nhất, khả dĩ bảo đảm hòa bình giữa các quốc gia. Về mặt luân lý, phải rất dè dặt đối với phương thức can ngăn này. Việc chạy đua vũ trang không bảo đảm được hòa bình. Việc đó không những không loại bỏ các nguyên nhân gây chiến, mà còn có nguy cơ làm cho các nguyên nhân đó trở thành trầm trọng hơn. Việc chi tiêu những khoản tiền khổng lồ để chuẩn bị vũ khí ngày càng tối tân, ngăn cản việc trợ giúp các dân tộc nghèo đói;78 việc chi tiêu đó cản trở sự phát triển của các dân tộc. Tự trang bị vũ khí cách thái quá làm gia tăng những nguyên nhân xung đột và tạo thêm nguy cơ lây lan các xung đột.
2316. 1906
Việc sản xuất và buôn bán vũ khí ảnh hưởng đến công ích của các quốc gia và của cộng đồng quốc tế. Vì vậy, các nhà cầm quyền có quyền và bổn phận quy định về vấn đề này. Những lợi nhuận ngắn hạn tư nhân hay công cộng không thể biện minh hợp pháp cho các tổ chức kinh doanh thúc đẩy bạo lực và xung đột giữa các quốc gia, và gây nguy hại cho lãnh vực luật pháp quốc tế.
2317. 1938, 2538, 1941
Những bất công và bất bình đẳng thái quá trong lãnh vực kinh tế và xã hội, lòng tham lam, sự ngờ vực và tính kiêu căng đang sinh sôi nảy nở giữa người ta và các quốc gia, không ngừng đe dọa nền hòa bình và gây ra chiến tranh. Bất cứ điều gì được thực hiện nhằm khắc phục những xáo trộn này, đều góp phần vào việc xây dựng hòa bình và tránh chiến tranh:
“Bởi vì con người là những kẻ tội lỗi, nên nguy cơ chiến tranh còn đe dọa họ, và sẽ còn đe dọa cho tới cuộc Ngự đến của Đức Ki-tô. Tuy nhiên, bởi vì là những người được liên kết bằng đức mến, con người thắng vượt được tội lỗi, nên bạo lực sẽ bị thắng vượt, cho tới khi lời sau đây được hoàn thành: ‘Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến’ (Is 2,4).”79
Tóm lược (2318-2330)
2318. “Chính Thiên Chúa nắm trong tay hồn của mọi sinh vật cũng như hơi thở của tất cả người phàm” (G 12,10).
2319. Toàn bộ đời sống con người, từ lúc tượng thai cho đến khi chết, là điều linh thánh, bởi vì Thiên Chúa muốn dựng nên con người vì chính họ, theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa hằng sống và thánh thiện.
2320. Giết một thụ tạo nhân linh là chống lại một cách nghiêm trọng phẩm giá con người và sự thánh thiện của Đấng Tạo Hoá.
2321. Luật cấm giết người không hủy bỏ quyền làm cho kẻ xâm phạm bất chính mất khả năng tác hại. Sự bảo vệ hợp pháp là một bổn phận quan trọng của những người có trách nhiệm về mạng sống người khác hay công ích.
2322. Ngay từ lúc tượng thai, đứa bé đã có quyền được sống. Việc phá thai trực tiếp, nghĩa là, hoặc được muốn như mục đích hoặc được muốn như phương tiện, đều là một hành vi “ô nhục”80, nghịch lại luật luân lý một cách nghiêm trọng. Theo giáo luật, Hội Thánh phạt vạ tuyệt thông cho tội ác chống lại sự sống con người này.
2323. Vì phải được đối xử như một nhân vị từ lúc tượng thai, nên phôi thai phải được bảo vệ, chăm sóc và chữa trị trong sự toàn vẹn của nó, cũng như bất cứ thụ tạo nhân linh nào khác.
2324. Cái chết êm dịu (euthanasia) có chủ ý, với bất cứ hình thức và lý do nào, đều là tội giết người. Tội này nghịch lại cách nghiêm trọng với phẩm giá của nhân vị, và với sự tôn trọng Thiên Chúa hằng sống, Đấng Tạo hóa của con người.
2325. Tự sát là nghịch lại cách nghiêm trọng với đức công bằng, đức cậy và đức mến. Điều răn thứ năm cấm tự sát.
2326. Gương xấu là một trọng tội, nếu bằng hành động hay bằng sự thiếu sót, nó chủ ý lôi kéo tha nhân đến chỗ phạm trọng tội.
2327. Vì mọi cuộc chiến đều kéo theo những tai họa và những bất công, nên chúng ta phải làm bất cứ điều gì có thể một cách hữu lý, để tránh chiến tranh. Hội Thánh cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi ôn dịch, nạn đói và chiến tranh.”
2328. Hội Thánh và lý trí con người đều tuyên bố hiệu lực trường tồn của luật luân lý, trong thời gian xảy ra các cuộc xung đột có vũ trang. Những hành động chủ ý nghịch với quyền của các dân tộc và với các nguyên tắc phổ quát của quyền đó, đều là tội ác.
2329. Việc chạy đua vũ trang là một tai họa hết sức nghiêm trọng cho nhân loại và xúc phạm đến người nghèo một cách không thể tha thứ được.81
2330. “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9).
Chú thích
33 Thánh bộ Giáo lý Đức Tin, Huấn thị Donum Vitae, Introductio, 5: AAS 80 (1988) 76-77.
34 X. St 4,8-12.
35 X. Lv 17,14.
36 X. Mt 5,22-26.38-39.
37 X. Mt 5,44.
38 X. Mt 26,52.
39 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, II-II, q. 64, a. 7, c: Ed. Leon. 9, 74.
40 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, II-II, q. 64, a. 7, c: Ed. Leon. 9, 74.
41 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, II-II, q. 64, a. 7, c: Ed. Leon. 9, 74.
42 [1] ĐGH Phan-xi-cô, Diễn văn dành cho các tham dự viên cuộc gặp gỡ do Hội đồng Giáo Hoàng Cổ Vũ Việc Tân Phúc Âm Hóa tổ chức (11-10-2017): L’Osservatore Romano (13-10-2017), 5.
43 X. St 4,10.
44 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 51: AAS 58 (1966) 1072.
45 X. Am 8,4-10.
46 X. Thánh bộ Giáo lý Đức Tin, Huấn thị Donum Vitae, 1, 1: AAS 80 (1988) 79.
47 Đi-đa-kê 2,2: SC 248,148 (Funk 1,8); x. Epistula Pseudo Barnabae 19, 5: SC 172,202 (Funk 1,90); Epistula ad Diognetum 5, 6: SC 33,62 (Funk 1,398); Tertullianô, Apologeticum, 9, 8: CCL 1,103 (PL 1,371-372).
48 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 51: AAS 58 (1966) 1072.
49 Bộ Giáo Luật, điều 1398.
50 Bộ Giáo Luật, điều 1314.
51 X. Bộ Giáo Luật, các điều 1323-1324.
52 Thánh bộ Giáo lý Đức Tin, Huấn thị Donum Vitae, 3: AAS 80 (1988) 98-99.
53 Thánh bộ Giáo lý Đức Tin, Huấn thị Donum Vitae, 3: AAS 80 (1988) 99.
54 Thánh bộ Giáo lý Đức Tin, Huấn thị Donum Vitae, 1, 2: AAS 80 (1988) 79-80.
55 Thánh bộ Giáo lý Đức Tin, Huấn thị Donum Vitae, 1, 3: AAS 80 (1988) 80-81.
56 Thánh bộ Giáo lý Đức Tin, Huấn thị Donum Vitae, 1, 5: AAS 80 (1988) 83.
57 Thánh bộ Giáo lý Đức Tin, Huấn thị Donum Vitae, 1, 6: AAS 80 (1988) 85.
58 X. Thánh bộ Giáo lý Đức Tin, Tuyên ngôn Jura et bona: AAS 72 (1980) 542-552.
59 X. 1 Cr 8,10-13.
60 X. Mt 7,15.
61 ĐGH Pi-ô XII, Nuntius radiophonicus (1/6/1941): AAS 33 (1941) 197.
62 X. Ep 6,4 ; Cl 3,21.
63 X. ĐGH Pi-ô XI, Thông điệp Casti connubi: DS 3722-3723.
64 X. Tb 1,16-18.
65 X. Bộ Giáo Luật, điều 1176,3.
66 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, II-II, q. 158, a. 1, ad 3: Ed. Leon. 10, 273.
67 Thánh Augustinô, De civitate Dei, 19,13: CSEL 402,395 (PL 41,640).
68 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 78: AAS 58 (1966) 1101.
69 X. Ep 2,16 ; Cl 1,20-22.
70 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 1: AAS 57 (1965) 5.
71 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 78: AAS 58 (1966) 1101-1102.
72 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 81: AAS 58 (1966) 1105.
73 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 79: AAS 58 (1966) 1103.
74 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 79: AAS 58 (1966) 1103.
75 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 79: AAS 58 (1966) 1103.
76 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 79: AAS 58 (1966) 1103.
77 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 80: AAS 58 (1966) 1104.
78 X. ĐGH Phao-lô VI, Thông điệp Populorum progressio, 53: AAS 59 (1967) 283.
79 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 78: AAS 58 (1966) 1102.
80 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 27: AAS 58 (1966) 1048.
81 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 81: AAS 58 (1966) 1105.
Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)
“Ngươi không được ngoại tình” (Xh 20,14).82 “Anh em đã nghe luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,27-28).
I. “Thiên Chúa đã tạo dựng con người, có nam có nữ…” (2331-2336) [369-373]
2331. 1604
“Thiên Chúa là tình yêu và nơi Ngài, Ngài sống mầu nhiệm của sự hiệp thông ngôi vị trong tình yêu. Khi tạo dựng bản tính con người theo hình ảnh mình, có nam có nữ, Thiên Chúa khắc ghi vào bản tính ấy ơn gọi, cùng với khả năng và trách nhiệm sống trong tình yêu và sự hiệp thông.”83 “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh mình… Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ” (St 1,27). “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều” (St 1,28). “Ngày Thiên Chúa tạo dựng con người, Thiên Chúa làm ra con người giống như Thiên Chúa. Chúa tạo dựng con người có nam có nữ, Chúa ban phúc lành cho họ và đặt tên cho họ là ‘người’, ngày họ được tạo dựng” (St 5,1-2).
2332. 362
Tính dục ảnh hưởng trên mọi phương diện của nhân vị, trong sự hợp nhất của linh hồn và thân xác của nó. Tính dục đặc biệt liên quan đến sức mạnh tình cảm, khả năng yêu thương và sinh sản, và một cách tổng quát hơn, khả năng kết nối các mối dây hiệp thông với người khác.
2333. 1603
Mỗi người, nam cũng như nữ, phải nhận biết và chấp nhận căn tính tính dục của mình. Sự khác biệt và sự bổ sung về thể lý, luân lý và tinh thần hướng đến lợi ích của hôn nhân và sự phát triển đời sống gia đình. Sự hài hòa của đôi phối ngẫu và của xã hội tùy thuộc phần nào vào cách thực hiện trong đời sống: sự bổ sung giữa các phái tính, sự cần đến nhau và sự trợ giúp lẫn nhau.
2334. 357
“Khi tạo dựng con người ‘có nam có nữ’, Thiên Chúa đã ban cho người nam và người nữ sự bình đẳng về nhân phẩm.”84 “Con người là một nhân vị, người nam và người nữ bình đẳng với nhau: cả hai được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa hữu ngã (personalis).”85
2335. 2205
Mỗi một trong hai phái tính, bình đẳng về phẩm giá, dù theo cách thức khác nhau, đều là hình ảnh của quyền năng và lòng yêu thương của Thiên Chúa. Sự kết hợp giữa người nam và người nữ trong hôn nhân là một cách nào đó, nơi thân xác, mô phỏng lòng quảng đại và sự phong phú của Đấng Tạo Hóa: “Người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24). Chính từ sự kết hợp này xuất phát mọi thế hệ con người.86
2336. 1614
Chúa Giê-su đã đến phục hồi cho thụ tạo tình trạng tinh tuyền nguyên thủy của nó. Trong Bài giảng trên núi, Người đã giải thích cách chính xác ý định của Thiên Chúa: “Anh em đã nghe luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,27-28). “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp loài người không được phân ly.”87
Bài này đã được xem 5588 lần!