GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

Truyền thống của Hội Thánh đã hiểu: điều răn thứ sáu đề cập đến mọi lãnh vực về tính dục của con người.

II. Ơn gọi sống khiết tịnh (2337-2359)

2337. 2349, 2520

Sự khiết tịnh là việc hòa nhập thành công tính dục trong nhân vị, và qua đó, là sự thống nhất nội tâm của con người là thực tại vừa thể xác, vừa tinh thần. Tính dục là nơi biểu lộ sự tùy thuộc của con người vào thế giới vật chất và sinh học; nó trở thành cá vị (personalis) và thật sự nhân bản (humana) khi gắn với tương quan giữa người với người, trong việc hiến thân cho nhau trọn vẹn và vĩnh viễn giữa người nam và người nữ.

Như vậy, nhân đức khiết tịnh bao gồm toàn bộ nhân vị và sự trọn vẹn của việc hiến thân.

Toàn bộ nhân vị (2338-2345)

2338. Người khiết tịnh giữ được toàn bộ sức mạnh của sự sống và tình yêu, đã được đặt nơi con người mình. Sự toàn vẹn này bảo đảm sự thống nhất của nhân vị, chống lại mọi thái độ làm tổn thương đến sự thống nhất đó. Nó không chấp nhận cuộc sống hai mặt, lời nói hai ý.88

2339. 1767

Đức khiết tịnh bao hàm việc tập luyện sự tự chủ, tức là một cách tập luyện để sống sự tự do của con người. Lựa chọn là điều rõ ràng: con người hoặc chế ngự các đam mê của mình và được bình an; hoặc để chúng bắt mình làm nô lệ và trở nên bất hạnh.89 “Phẩm giá con người đòi họ phải hành động theo một sự lựa chọn có ý thức và tự do, một cách cá vị, nghĩa là được thúc đẩy và được hướng dẫn từ bên trong, chứ không phải dưới sự thôi thúc mù quáng bên trong hoặc chỉ dưới sự cưỡng chế bên ngoài. Con người đạt đến phẩm giá đó khi, nhờ tự giải thoát khỏi mọi nô dịch cho các đam mê, nhờ tự do lựa chọn điều thiện, con người theo đuổi mục đích của mình và một cách hữu hiệu, tìm được cho mình sự trợ giúp thích hợp và sự chuyên cần thành thạo.”90

2340. 2015

Ai muốn trung thành với những lời hứa khi lãnh Phép Rửa và chống lại các cơn cám dỗ, phải dùng những phương thế tương ứng: phải biết mình, thực tập việc khổ chế thích hợp với hoàn cảnh mình đang sống, tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa, thực hành các nhân đức luân lý và trung thành với việc cầu nguyện. “Nhờ sự tiết dục, chúng ta được quy tụ lại và tìm lại được sự thống nhất bản thân, mà từ đó chúng ta đã bị phân tán thành nhiều mảnh.”91

2341. 1809

Đức khiết tịnh phụ thuộc nhân đức trụ là đức tiết độ, là nhân đức dùng lý trí để hướng dẫn các đam mê và các ước muốn của giác quan con người.

2342. 409

Sự tự chủ là một công việc bền bỉ lâu dài, không bao giờ được coi như đã đạt tới một lần là xong. Sự tự chủ bao hàm sự cố gắng đi cố gắng lại trong mọi độ tuổi của cuộc đời.92 Có thể ở một số giai đoạn nào đó đòi phải cố gắng nhiều hơn, như khi nhân cách được hình thành, trong tuổi thiếu niên và thanh niên (x. Tt 2,1-6).

2343. 2223

Đức khiết tịnh cũng có những quy luật tăng trưởng, phải trải qua những bất toàn và rất thường là tội lỗi nữa. Con người khiết tịnh và say mê nhân đức “ngày qua ngày, như được hình thành bằng nhiều lựa chọn tự do: nhờ đó họ nhận biết, yêu mến và chu toàn điều thiện luân lý qua những giai đoạn tăng trưởng của họ.”93

2344. 2525

Đức khiết tịnh là một công việc hết sức cá vị, nhưng cũng bao hàm một nỗ lực về văn hóa, bởi vì quả thật “sự thăng tiến của nhân vị và sự phát triển của chính xã hội lệ thuộc lẫn nhau.”94 Đức khiết tịnh giả thiết sự tôn trọng đối với các quyền con người, đặc biệt quyền được đón nhận thông tin và sự giáo dục, để biết tôn trọng các giá trị luân lý và tinh thần của đời sống con người.

2345. 1810

Khiết tịnh là một nhân đức luân lý. Nhưng đó cũng là hồng ân của Thiên Chúa, là ân sủng, là hoa trái của Thần Khí.95 Chúa Thánh Thần ban cho người đã được tái sinh nhờ nước Rửa Tội, có khả năng mô phỏng96 sự trong sạch của Đức Ki-tô.

Sự trọn vẹn của việc hiến thân (2346-2347)

2346. 1827, 210

Đức mến là mô thể của mọi nhân đức. Dưới ảnh hưởng của đức mến, đức khiết tịnh như là trường dạy việc hiến thân. Sự tự chủ được quy hướng tới sự tự hiến. Đức khiết tịnh hướng dẫn người thực thi nhân đức đó, để họ trở thành chứng nhân về lòng trung tín và yêu thương của Thiên Chúa trước mặt người lân cận.

2347. 374

Đức khiết tịnh nảy nở trong tình bằng hữu. Nhân đức này chỉ cho người môn đệ biết làm thế nào để bước theo và bắt chước Đấng đã chọn chúng ta như bạn hữu riêng của Người,97 đã tự hiến trọn vẹn cho chúng ta và cho chúng ta tham dự vào thần tính của Người.

Đức khiết tịnh là lời hứa của sự bất tử. Đức khiết tịnh được biểu lộ cách đặc biệt trong tình bằng hữu đối với người lân cận. Tình bằng hữu, được triển nở giữa những người cùng phái hoặc khác phái, là điều thiện hảo lớn lao cho mọi người. Tình bằng hữu dẫn đến sự hiệp thông tinh thần.

Những cách sống khiết tịnh (2348-2350)

2348. Mọi người đã được rửa tội đều được kêu gọi sống khiết tịnh. Ki-tô hữu đã mặc lấy Đức Ki-tô,98 khuôn mẫu của mọi đời sống khiết tịnh. Tất cả các Ki-tô hữu đều được kêu gọi sống đời khiết tịnh tùy theo bậc sống riêng của mình. Khi lãnh nhận Phép Rửa, Ki-tô hữu đã cam kết điều khiển sức mạnh tình cảm của mình trong đức khiết tịnh.

2349. 1620

“Người ta phải được tô điểm bằng đức khiết tịnh tùy theo bậc sống khác nhau: có người thì tuyên giữ trinh khiết hay độc thân thánh hiến cho Thiên Chúa, nhờ cách thức trổi vượt này, họ có thể kết hợp với Thiên Chúa cách dễ dàng hơn nhờ một trái tim không chia sẻ; có người lại sống theo hình thức đã được luật luân lý đặt ra cho mọi người, hoặc được kết hợp bằng hôn nhân hoặc sống độc thân.”99 Những người đã được liên kết bằng hôn nhân được kêu gọi sống đức khiết tịnh phu phụ; còn những người khác thì vun trồng đức khiết tịnh trong sự tiết dục.

“Có ba hình thức sống đức khiết tịnh: một là của bậc phu phụ, thứ đến của người góa bụa và thứ ba là của kẻ đồng trinh. Chúng ta không ca tụng hình thức này mà loại bỏ hình thức khác… Chính ở điểm này, kỷ luật của Hội Thánh rất phong phú.”100

2350. 1632

Những người đã đính hôn được kêu gọi vun trồng đức khiết tịnh trong sự tiết dục. Trong thời gian thử thách này, họ sẽ học biết tôn trọng lẫn nhau, tập chung thủy và hy vọng được đón nhận nhau từ Thiên Chúa. Họ phải dành những cách biểu lộ lòng âu yếm, là đặc trưng của tình yêu phu phụ, cho đến lúc đã thành hôn. Họ phải giúp nhau lớn lên trong sự khiết tịnh.

Những xúc phạm nghịch đức khiết tịnh (2351-2356)

2351. 2528

Mê dâm dục là sự ham muốn vô trật tự hay hưởng thụ vô độ khoái lạc tình dục. Khoái lạc tình dục là vô trật tự về mặt luân lý, khi chỉ tìm khoái lạc để hưởng thụ, chứ không nhằm mục đích sinh sản và kết hợp trong tình yêu.

2352. 1735

Thủ dâm hiểu là việc chủ ý kích thích cơ quan sinh dục để đạt được khoái lạc tình dục. “Dựa theo truyền thống bền vững, cả Huấn quyền cả cảm thức luân lý của các Ki-tô hữu, không hoài nghi khẳng định rằng, thủ dâm là một hành vi tự bản chất là vô trật tự cách nghiêm trọng.” “Với bất cứ lý do nào, việc chủ ý sử dụng khả năng tình dục ngoài quan hệ phu phụ đúng đắn cũng là sai mục đích của nó.” Ở đây là tìm khoái lạc tình dục bên ngoài quan hệ tình dục, “theo luật luân lý đòi hỏi, là quan hệ thực hiện việc hiến thân trọn vẹn cho nhau và việc sinh sản con người trong khuôn khổ của tình yêu đích thực.”101

Để có phán đoán đúng đắn về trách nhiện luân lý của đương sự, cũng như đưa ra một đường hướng mục vụ, cần lưu ý đến tình trạng thiếu trưởng thành tình cảm, áp lực của các thói quen đã có, tâm trạng lo âu cũng như những yếu tố khác về tâm lý và xã hội. Các nhân tố trên có thể làm cho sự quy tội luân lý được giảm nhẹ, thậm chí đến mức tối thiểu.

2353. Gian dâm là quan hệ xác thịt ngoài hôn nhân giữa một người nam và một người nữ còn tự do. Tội này trái nghịch cách nghiêm trọng với nhân phẩm và tính dục của con người, vốn tự nhiên quy hướng tới lợi ích của đôi phối ngẫu cũng như tới việc sinh sản và giáo dục con cái. Ngoài ra, gian dâm còn là một gương xấu nghiêm trọng, khi làm băng hoại giới trẻ.

2354. 2523

Hình ảnh khiêu dâm cốt tại việc đem những hành vi tính dục, có thật hay giả vờ, ra khỏi vòng thân mật của những người trong cuộc, chủ ý phơi bày cho những người khác. Hình ảnh khiêu dâm xúc phạm đến đức khiết tịnh, bởi vì làm biến chất hành vi phu phụ, sự tự hiến thân mật cho nhau của đôi phối ngẫu. Chúng xúc phạm cách nghiêm trọng đến phẩm giá của những người tham gia vào đó (diễn viên, kẻ kinh doanh, khán giả), bởi vì người này trở thành đối tượng mua vui thô lỗ và là nguồn lợi nhuận bất chính cho người khác. Hình ảnh khiêu dâm dìm hết người này đến người khác vào sự ảo tưởng của thế giới giả trá. Đó là một trọng tội. Chính quyền phải ngăn cấm việc sản xuất và phổ biến những hình ảnh khiêu dâm này.

2355. 1735

Mại dâm làm tổn thương phẩm giá của người làm nghề này, biến phẩm giá đó thành dụng cụ cho khoái lạc xác thịt. Người trả tiền [mua dâm] phạm tội cách nghiêm trọng nghịch với chính bản thân: họ phá hủy đức khiết tịnh mà bí tích Rửa Tội đòi buộc, và làm ô uế thân xác của mình là đền thờ Chúa Thánh Thần.102 Mại dâm là một tai họa cho xã hội. Thường thì liên quan đến người nữ, nhưng cũng có người nam, thiếu nhi hoặc thiếu niên (trong hai trường hợp sau, lại có thêm tội gây gương xấu). Mặc dù hành nghề mại dâm luôn là trọng tội, nhưng sự khốn cùng, những hăm dọa và sự thúc đẩy của xã hội có thể làm giảm thiểu tính quy tội của tội lỗi.

2356. 2297, 1756, 2388

Hiếp dâm là dùng sức mạnh, với bạo lực, bắt kẻ khác quan hệ tính dục với mình. Tội này làm tổn thương đức công bằng và đức mến. Hiếp dâm xúc phạm sâu xa đến quyền của mỗi người là quyền được tôn trọng, quyền tự do và quyền được toàn vẹn về thể lý và luân lý. Tội này gây thương tổn nghiêm trọng, có thể ảnh hưởng đến suốt cuộc đời của nạn nhân. Hành vi này luôn là một điều xấu từ bản chất. Hiếp dâm lại càng nghiêm trọng hơn, khi cha mẹ (x. tội loạn luân) hay những người giáo dục hiếp dâm các trẻ em được ủy thác cho họ.

Đức khiết tịnh và sự đồng tính luyến ái (2357-2359)

2357. 2333

Đồng tính luyến ái là những liên hệ giữa những người nam hay những người nữ, cảm thấy sự hấp dẫn tính dục, độc chiếm (exclusive) hoặc vượt trội (praevalenter) đối với những người cùng phái tính. Đồng tính luyến ái mang những hình thức rất khác nhau qua các thế kỷ và các nền văn hóa. Nguồn gốc tâm thần của hiện tượng này phần lớn vẫn chưa giải thích được. Dựa trên Thánh Kinh, vốn xem chúng như những suy đồi nghiêm trọng,103 truyền thống Hội Thánh luôn tuyên bố: “Các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là vô trật tự.”104 Chúng nghịch với luật tự nhiên. Chúng khép kín hành vi tính dục khỏi việc ban tặng sự sống. Chúng không phát xuất từ tính bổ sung thật sự về tình cảm và tính dục. Những hành vi này không thể chấp nhận được trong bất cứ trường hợp nào.

2358. Một số không nhỏ những người nam và người nữ có khuynh hướng đồng tính luyến ái thâm căn. Đối với đa số những người này, sự nghiêng chiều vô trật tự một cách khách quan đó, là một thử thách. Họ phải được đón nhận với sự tôn trọng, thông cảm và tế nhị. Phải tránh bất cứ dấu hiệu phân biệt đối xử bất công nào đối với họ. Những người này được kêu gọi thực hiện ý Thiên Chúa trong cuộc sống của mình, và, nếu là Ki-tô hữu, họ được kêu gọi kết hợp các khó khăn họ có thể gặp phải do hoàn cảnh của mình, với hy lễ thập giá của Chúa.

2359. 2347

Những người đồng tính luyến ái được kêu gọi sống khiết tịnh. Nhờ các nhân đức giúp tự chủ dạy cho biết sự tự do nội tâm, và có khi nhờ sự nâng đỡ của tình bằng hữu vô vị lợi, nhờ việc cầu nguyện và ân sủng bí tích, chính họ có thể và phải dần dần và cương quyết tiến đến sự trọn hảo Ki-tô Giáo.

III. Tình yêu của đôi phối ngẫu (2360-2379)

2360. 1601

Tính dục quy hướng tới tình yêu phu phụ giữa người nam và người nữ. Trong hôn nhân, sự ái ân thể xác của đôi phối ngẫu trở thành dấu chỉ và bảo chứng của sự hiệp thông tinh thần. Giữa những người đã chịu Phép Rửa, dây liên kết hôn nhân được thánh hóa bằng một bí tích.

2361. 1643, 2332, 1611

“Tính dục…, qua đó người nam và người nữ hiến thân cho nhau bằng những hành vi riêng và đặc trưng của đôi phối ngẫu, không chỉ là một cái gì đó thuần túy sinh học, nhưng nó đụng chạm đến phần thâm sâu nhất của nhân vị. Tính dục chỉ được thực hiện một cách nhân bản đích thực, nếu nó là một phần để hoàn thành tình yêu, qua đó người nam và người nữ cam kết hiến thân trọn vẹn cho nhau cho đến chết”:105

“Tô-bi-a ngồi dậy, ra khỏi giường và nói với Xa-ra: ‘Đứng lên, em! Chúng ta hãy cầu nguyện nài xin Chúa để Ngài xót thương và ban ơn cứu độ cho chúng ta’. Cô đứng lên, rồi cả hai bắt đầu cầu nguyện và nài xin cho mình được cứu độ. Tô-bi-a bắt đầu như sau: ‘Lạy Thiên Chúa của tổ tiên chúng con, xin chúc tụng Chúa… Chính Chúa đã dựng nên ông A-đam, dựng nên cho ông một người trợ giúp và nâng đỡ là bà E-và, vợ ông. Và dòng dõi loài người đã sinh ra từ hai ông bà. Chính Chúa đã nói: Con người ở một mình thì không tốt, Ta sẽ làm cho nó một người trợ giúp giống như nó. Giờ đây, không phải vì lòng dục mà con lấy em con đây, nhưng vì lòng chân thành. Xin Chúa đoái thương con và em con, cho chúng con được chung sống bên nhau đến tuổi già’. Rồi họ đồng thanh nói: ‘A-men, A-men!’. Sau đó, họ ngủ luôn cho đến sáng” (Tb 8,4-9).

2362. “Những hành vi…, qua đó đôi phối ngẫu kết hợp với nhau cách thân mật và khiết tịnh, đều ngay chính và xứng đáng, và khi được thực hiện cách thật sự nhân bản, những hành vi ấy biểu thị và khích lệ sự hiến thân cho nhau, nhờ đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong tâm tình vui mừng và biết ơn.”106 Tính dục là nguồn mạch của sự hoan lạc và thú vui.

“Chính Đấng Tạo Hóa… cũng đã sắp đặt để, trong nhiệm vụ sinh sản, đôi phối ngẫu gặp được thú vui và hạnh phúc cả thân xác cả tinh thần. Vì vậy, đôi phối ngẫu chẳng làm điều gì xấu, khi tìm kiếm và tận hưởng thú vui đó. Họ đón nhận những gì Đấng Tạo hóa đã nhắm ban cho họ. Tuy nhiên, đôi phối ngẫu cũng phải biết giữ mình trong những giới hạn của sự tiết độ chính đáng.”107

2363. Nhờ sự kết hợp của đôi phối ngẫu, mục đích kép của hôn nhân được thể hiện: lợi ích của chính đôi phối ngẫu và sự lưu truyền sự sống. Không thể tách biệt hai ý nghĩa hoặc hai giá trị này của hôn nhân, mà không làm biến chất đời sống tinh thần của đôi phối ngẫu cũng như phương hại đến những lợi ích của hôn nhân và tương lai của gia đình.

Như vậy, tình yêu phu phụ của người nam và người nữ được đặt dưới một đòi hỏi kép là sự chung thủy và sự sinh sản con cái.

Sự chung thủy phu phụ (2364-2365) [1646-1648]

2364. 1603, 1615

Đôi phối ngẫu làm nên “cộng đồng thân mật của sự sống và tình yêu phu phụ, đã được Đấng Tạo hóa thiết lập và ban cho những luật lệ riêng. Cộng đồng đó được thiết lập bằng giao ước của đôi phối ngẫu, nghĩa là bằng sự ưng thuận cá vị không thể thu hồi.”108 Cả hai hiến thân cho nhau cách vĩnh viễn và trọn vẹn. Họ không còn là hai, nhưng đã trở thành một thân xác duy nhất. Giao ước đã được đôi phối ngẫu ký kết cách tự do, buộc họ có bổn phận phải bảo tồn sự duy nhất và bất khả phân ly của giao ước đó.109 “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9).110

2365. 1640

Lòng chung thủy diễn tả sự kiên trì tuân giữ lời đã cam kết. Thiên Chúa là Đấng trung tín. Bí tích Hôn Phối dẫn đưa người nam và người nữ vào sự trung tín của Đức Ki-tô đối với Hội Thánh Người. Nhờ sự khiết tịnh phu phụ, họ làm chứng về mầu nhiệm đó trước mặt trần gian.

Thánh Gio-an Kim Khẩu gợi ý cho các bạn trẻ lập gia đình nói những lời sau đây với vợ họ: “Anh ôm em và anh yêu em, anh quý em hơn cả linh hồn mình. Vì cuộc sống hiện tại chẳng là gì hết, nên anh cầu nguyện, anh nài xin, và anh làm mọi sự, sao cho chúng ta được coi là xứng đáng khi sống cuộc sống hiện tại, hầu chúng ta cũng có thể được như vậy trong cuộc sống đời sau, để được kết hợp với nhau trong sự an toàn trọn hảo… Anh đặt tình yêu của em lên trên tất cả; và sẽ chẳng có gì làm cho anh khổ tâm hơn là anh phải lìa xa em.”111

Bài này đã được xem 5737 lần!

Pages ( 79 of 96 ): <1 ... 7778 79 8081 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]