GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

165. 2719

Chính lúc đó chúng ta phải hướng về các nhân chứng đức tin: về ông Áp-ra-ham, là người “mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin” (Rm 4,18); về Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, là người, “trong cuộc lữ hành đức tin”,41 đã tiến đến tận “đêm tối của đức tin”42 khi tham dự vào đêm tối là cuộc khổ hình thập giá của Con ngài, và đêm tối là phần mộ của Người;43 và chúng ta phải hướng về biết bao nhiêu nhân chứng đức tin khác nữa: “Được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Chúa Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,1-2).


Chú thích

4 X. St 12,1-4.

5 X. St 23,4.

6 X. Dt 11,17.

7 X. St 15,6.

8 X. St 15,5.

9 X. St 18,14.

10 X. Lc 1,48.

11 X. Lc 2,35.

12 X. Gr 17,5-6; Tv 40,5; 146,3-4.

13 X. Mc 1,11.

14 X. Mc 9,7.

15 X. Mt 11,27.

16 X. Gl 1,15-16; Mt 11,25.

17 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 5: AAS 58 (1966) 819.

18 CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 3: DS 3008.

19 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, II-II, q. 2, a. 9, c: Ed. Leon. 8, 37; x. CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 3: DS 3010.

20 CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 3: DS 3008.

21 CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 3: DS 3009.

22 X. Mc 16,20; Dt 2,4.

23 CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 3: DS 3009.

24 CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 3: DS 3010.

25 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, II-II, q. 171, a.5, 3um: Ed. Leon. 10, 373.

26 John Henry Newman, Apologia pro vitasua, c. 5, Ed. M.J. Svaglic (Oxford 1967) 210.

27 Thánh Anselmô, Proslogion, Prooemium: Opera omnia, ed. F.S. Schmitt, v. 1 (Edinburghi 1946) 94.

28 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 5: AAS 58 (1966) 819.

29 Thánh Augustinô, Sermo, 43, 7, 9: CCL 41,512 (PL 38,258).

30 CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 4: DS 3017.

31 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 36: AAS 58 (1966) 1054.

32 CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 10: AAS 58 (1966) 936; X. Bộ Giáo Luật, điều 748,2.

33 CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 11: AAS 58 (1966) 936.

34 CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 11: AAS 58 (1966) 937.

35 X. Mc 16,16; Ga 3,36; 6,40.

36 CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 3: DS 3012; x. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 8: DS 1532.

37 X. Mc 9,24; Lc 17,5; 22,32.

38 X. Gc 2,14-26.

39 X. Rm 15,13.

40 Thánh Ba-si-li-ô Cả, Liber de Spiritu Sancto, 15, 36: SC 17bis, 370 (PG 32,132); x. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, II-II, q. 4, a. 1, c: Ed. Leon. 8, 44.

41 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 58: AAS 57 (1965) 61.

42 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptoris Mater, 17: AAS 79 (1987) 381.

43 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptoris Mater, 18: AAS 79 (1987) 382-383.

 

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

166. 875

Đức tin là một hành vi cá nhân: là lời đáp lại cách tự nguyện của con người trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải. Nhưng đức tin không phải là một hành vi đơn độc. Không ai có thể tin một mình, cũng như không ai có thể sống một mình. Không ai tự ban đức tin cho mình, cũng như không ai tự ban sự sống cho mình. Người tin nhận được đức tin từ những kẻ khác và phải thông truyền đức tin đó cho những kẻ khác. Tình yêu của chúng ta đối với Chúa Giê-su và đối với tha nhân, thúc giục chúng ta nói về đức tin của chúng ta cho những người khác. Mỗi người tin là như một mắt xích trong một xâu chuỗi rộng lớn các kẻ tin. Tôi không thể tin nếu không được nâng đỡ bằng đức tin của những người khác, và bằng đức tin của tôi, tôi góp phần vào việc nâng đỡ đức tin của những người khác.

167. 1124, 2040

“Tôi tin”:44 đây là đức tin của Hội Thánh, được mỗi tín hữu đích thân tuyên xưng, đặc biệt lúc chịu phép Rửa Tội. “Chúng tôi tin”:45 đây là đức tin của Hội Thánh, được các Giám mục họp Công đồng tuyên xưng, hoặc thông thường hơn, được cộng đoàn tín hữu cử hành phụng vụ tuyên xưng. “Tôi tin”: đây cũng là Hội Thánh, Mẹ chúng ta, đang lấy đức tin của mình mà đáp lời Thiên Chúa, và dạy chúng ta nói: “Tôi tin”, “Chúng tôi tin.”

I. “Lạy Chúa, xin nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa” (168-169)

168. 1253

Trước hết Hội Thánh tin, và như vậy, hướng dẫn, nuôi dưỡng và nâng đỡ đức tin của tôi. Trước hết Hội Thánh tuyên xưng Chúa ở khắp nơi (như chúng ta hát trong kinh Te Deum: “Và trải rộng khắp nơi trần thế, Hội Thánh Ngài hoan hỷ tuyên xưng”), rồi cùng với Hội Thánh và trong Hội Thánh, chúng ta được thúc đẩy và hướng dẫn để chúng ta cũng tuyên xưng: “Tôi tin”, “Chúng tôi tin.” Chính từ Hội Thánh mà chúng ta lãnh nhận đức tin và đời sống mới trong Đức Ki-tô nhờ bí tích Rửa Tội. Trong sách Nghi thức Rô-ma, thừa tác viên cử hành bí tích Rửa Tội hỏi người dự tòng: “Con xin gì cùng Hội Thánh Chúa? – Thưa: “Con xin đức tin” – “Đức tin sinh ơn ích gì cho con?” – “Thưa đức tin đem lại cho con sự sống đời đời.”46

169. 750, 2030

Ơn cứu độ đến từ một mình Thiên Chúa, nhưng bởi vì chúng ta lãnh nhận đời sống đức tin nhờ Hội Thánh, nên Hội Thánh là mẹ chúng ta: “Chúng tôi tin Hội Thánh như người mẹ cho chúng tôi được tái sinh, chứ chúng tôi không tin vào Hội Thánh như là tác giả của ơn cứu độ.”47 Bởi vì là mẹ chúng ta, nên Hội Thánh cũng là người giáo dục đức tin của chúng ta.

II. Ngôn ngữ đức tin (170-171)

170. 186

Chúng ta không tin vào những công thức, nhưng tin vào những thực tại mà các công thức đó diễn tả, những thực tại mà đức tin cho phép chúng ta “đụng chạm tới.” “Hành vi [đức tin] của tín hữu không dừng lại ở lời phát biểu, mà ở thực tại [được phát biểu].”48 Tuy nhiên, chúng ta tiếp cận những thực tại đó nhờ sự trợ giúp của những công thức diễn tả đức tin. Những công thức này cho phép diễn tả và lưu truyền đức tin, cử hành đức tin trong cộng đoàn, làm cho tín hữu thấm nhuần và sống đức tin mỗi ngày một hơn.

171. 78, 857, 84, 185

Hội Thánh, là “cột trụ và điểm tựa của chân lý” (1 Tm 3,15), trung thành bảo toàn đức tin đã được truyền lại cho dân thánh một lần cho mãi mãi.49 Chính Hội Thánh ghi nhớ những Lời của Đức Ki-tô và lưu truyền từ đời nọ đến đời kia lời tuyên xưng đức tin của các Tông Đồ. Cũng như một người mẹ dạy con mình nói, và qua đó dạy con hiểu biết và giao tiếp với những người khác, Hội Thánh, Mẹ chúng ta, cũng dạy chúng ta ngôn ngữ đức tin để dẫn dắt chúng ta hiểu biết đức tin và sống đức tin.

III. Một đức tin duy nhất (172-175)

172. 813

Từ nhiều thế kỷ, qua biết bao ngôn ngữ, văn hóa, dân tộc và quốc gia, Hội Thánh không ngừng tuyên xưng đức tin duy nhất của mình, đức tin đó Hội Thánh đã lãnh nhận từ một Chúa duy nhất, đức tin đó được lưu truyền nhờ một Phép Rửa duy nhất, đức tin đó bén rễ trong niềm xác tín rằng tất cả mọi người chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và là Cha duy nhất.50 Thánh I-rê-nê Lyon, chứng nhân của đức tin ấy, đã tuyên bố:

173. 830

“Hội Thánh được gieo trồng trên khắp thế giới cho đến tận cùng cõi đất, đã lãnh nhận đức tin từ các Tông Đồ và các môn đệ của các ngài… Hội Thánh chuyên cần bảo tồn lời rao giảng đó và đức tin đó như đang sống trong cùng một ngôi nhà, và tin những điều đó một cách giống nhau, như chỉ có một linh hồn và một trái tim, và đồng thanh rao giảng, dạy dỗ và lưu truyền đức tin ấy, như chỉ có một miệng lưỡi.”51

174. 78

“Mặc dầu trên trần gian có những ngôn ngữ khác nhau, nhưng nội dung của Thánh Truyền là một và y nguyên. Các Giáo Hội được thiết lập tại Đức không tin một cách nào khác hoặc lưu truyền một cách nào khác, và các Giáo Hội ở vùng Ibêria, các Giáo Hội ở vùng Celtô, các Giáo Hội ở Đông phương, ở Ai Cập, ở Libya hay tại trung tâm thế giới cũng vậy…”52 “Quả vậy, lời rao giảng của Hội Thánh có tính chất chân thật và vững bền, nơi Hội Thánh, một con đường cứu độ duy nhất được tỏ bày cho khắp trần gian.”53

175. “Chúng ta gìn giữ đức tin mà chúng ta đã lãnh nhận từ Hội Thánh, và đức tin đó, luôn nhờ Thần Khí của Thiên Chúa, là như một kho tàng quý giá luôn tươi trẻ được chứa đựng trong cái bình tốt, và đức tin đó làm tươi trẻ chính cái bình chứa đựng nó.”54

Tóm lược (176-184)

176. Đức tin là sự gắn bó cá nhân của toàn thể con người mình với Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải. Đức tin bao hàm sự gắn bó của lý trí và ý chí với mặc khải mà Thiên Chúa đã bày tỏ về chính Ngài qua các việc làm và lời nói.

177. Vì vậy, “tin” có hai tương quan: với chủ vị và với chân lý; với chân lý vì tin vào chủ vị là Đấng làm chứng cho chân lý đó.

178. Chúng ta không được tin vào ai khác ngoài Thiên Chúa, là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

179. Đức tin là một hồng ân siêu nhiên của Thiên Chúa. Để tin, con người cần đến những trợ lực bên trong của Chúa Thánh Thần.

180. “Tin” là một hành vi nhân linh, có ý thức và tự do, xứng hợp với phẩm giá con người.

181. “Tin” là một hành vi có chiều kích Hội Thánh. Đức tin của Hội Thánh có trước, sinh ra, nâng đỡ và dưỡng nuôi đức tin của chúng ta. Hội Thánh là Mẹ của mọi tín hữu. “Không ai có thể có Thiên Chúa là Cha, mà lại không có Hội Thánh là Mẹ.”55

182. “Chúng ta tin tất cả những gì chứa đựng trong Lời Thiên Chúa, được viết thành văn hoặc được lưu truyền, và được Hội Thánh dạy phải tin như là những điều được Thiên Chúa mặc khải.”56

183. Đức tin là cần thiết để được cứu độ. Chính Chúa đã khẳng định: “Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,16).

184. “Đức tin là một cách nếm trước sự hiểu biết sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc trong tương lai.”57


Chú thích

44 Tín biểu các Tông Đồ: DS 30.

45 Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli: DS 150.

46 Nghi thức gia nhập Ki-tô giáo cho người lớn, 75, ed. typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1972) 24; Ibid., 247, 91.

47 Faustus Reiensis, De Spiritu Sancto, 1, 2: CSEL 21,104 (1, 1: PL 62,11).

48 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae,, II-II, q. 1, a. 2, ad 2: Ed. Leon. 8, 11.

49 X. Gđ 1,3.

50 X. Ep 4,4-6.

51 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 1, 10, 1-2: SC 264,154-158 (PG 7,550-551).

52 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 1, 10, 2: SC 264,158-160 (PG 7,531-534).

53 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 5, 20, 1: SC 153,254-256 (PG 7,1177).

54 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 3, 24, 1: SC 211,472 (PG 7,966).

55 Thánh Cyprianô, De Ecclesiae catholicae unitate, 6: CCL 3,253 (PL 4,519).

56 ĐGH Phao-lô VI, Sollemnis Professio fidei, 20: AAS 60 (1968) 441.

57 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Compendium theologiae, 1, 2: Ed. Leon. 42, 83.

TÍN BIỂU

Tín biểu của các Tông Đồ58

Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất.
Tôi tin kính Đức Giê-su Ki-tô là Con Một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi.
Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai Sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh,
Chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô Chịu đóng đinh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông.
Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại,
lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng, ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần, tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này, Các Thánh thông công, tôi tin phép tha tội, tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy. Amen

Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli59

Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình.
Tôi tin kính một Chúa Giê-su Ki-tô Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời: Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa; Ánh sáng bởi Ánh sáng; Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật; được sinh ra mà không phải được tạo thành; đồng bản thể với Đức Chúa Cha: nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế.
Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a và đã làm người.
Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta thời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô; Người chịu khổ hình và mai táng.
Ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh,
Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng. Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống; Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các Tiên tri mà phán dạy. Tôi tin Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, Công giáo và tông truyền. Tôi tuyên xưng có một Phép Rửa để tha tội. Tôi trông đợi kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau. Amen.


Chú thích

58 DS 30. Chú thích riêng của bản dịch tiếng Việt: Ủy Ban Phụng Tự trực thuộc Hội Đồng Giám mục Việt Nam, Nghi Thức Thánh Lễ (bản dịch được Tòa Thánh phê chuẩn ngày 10.05.2005) (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, 2005), 18.

59 DS 150. Chú thích riêng của bản dịch tiếng Việt: Như trên, 17.

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

Các tín biểu (185-197)

185. 171, 949

Ai nói “Tôi tin”, tức là nói “Tôi gắn bó với những điều chúng tôi cùng tin.” Sự hiệp thông trong đức tin đòi hỏi một ngôn ngữ chung của đức tin, làm chuẩn mực cho mọi người và liên kết mọi người trong cùng một lời tuyên xưng đức tin.

186. Ngay từ đầu, Hội Thánh thời các Tông Đồ đã diễn tả và lưu truyền đức tin của mình bằng những công thức ngắn và có giá trị chuẩn mực đối với mọi người.1 Không lâu sau đó, Hội Thánh lại muốn thu thập những điểm cốt yếu của đức tin vào những bản tóm lược mạch lạc và rõ ràng, chủ yếu dành cho những người chuẩn bị lãnh bí tích Rửa Tội.

“Bản tóm lược đức tin này được soạn thảo không phải để làm vừa lòng người ta; nhưng trong toàn bộ Thánh Kinh, đã chọn lấy những điều quan trọng nhất để làm thành một giáo huấn đức tin duy nhất. Như trong một hạt cải nhỏ bé đã chứa đựng nhiều cành lá, cũng vậy trong một ít lời, bản tóm lược đức tin này chứa đựng toàn bộ tri thức đạo đức của cả Cựu Ước lẫn Tân Ước.”2

187. Các bản tổng hợp đức tin đó được gọi là các “Bản tuyên xưng đức tin”, vì chúng tóm lược đức tin mà các Ki-tô hữu tuyên xưng. Chúng được gọi là “Kinh Tin Kính” vì thường bắt đầu bằng thuật ngữ “Tôi tin kính.” Chúng cũng còn được gọi là các “Tín biểu” (Symbola fidei).

188. Symbolon là một từ Hy Lạp dùng để chỉ phân nửa của một vật được bẻ ra (chẳng hạn, của một ấn tín) mà người ta đưa ra làm dấu chỉ để nhận ra nhau. Những phần đã bị bẻ ra được đặt khớp lại với nhau để xác minh căn tính của người mang nó. Tín biểu (Symbolum fidei) là một dấu chỉ để các tín hữu nhận ra nhau, hiệp thông với nhau. Symbolon sau đó được dùng để chỉ một bản toát yếu, bản sưu tập, hoặc bản tóm lược. Tín biểu là bản toát yếu những chân lý chủ yếu của đức tin. Từ đó, nó được coi là điểm đầu tiên và căn bản mà việc dạy giáo lý phải quy chiếu.

189. 1237, 232

Việc “tuyên xưng đức tin” đầu tiên được thực hiện khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội. “Tín biểu” trước hết là Tín biểu của Phép Rửa. Bởi vì Phép Rửa được ban “nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần” (Mt 28,19), nên các chân lý đức tin được tuyên xưng trong Phép Rửa đã được sắp xếp theo tương quan của chúng với Ba Ngôi Chí Thánh.

190. Do đó, Tín biểu được chia làm ba phần: “Phần đầu nói về Thiên Chúa Ngôi Thứ Nhất và về công trình tạo dựng kỳ diệu; phần tiếp sau nói về Ngôi Hai và về mầu nhiệm Cứu chuộc loài người; phần cuối cùng nói về Ngôi Ba, là nguyên lý và nguồn mạch của việc thánh hóa chúng ta.”3 Đó là “ba chương của ấn tín [rửa tội] của chúng ta.”4

191. Tín biểu “được chia làm ba phần, gồm những câu khác biệt nhưng liên kết rất chặt chẽ với nhau. Dựa theo một hình ảnh các Giáo phụ quen dùng, chúng ta gọi các câu đó là articuli [nghĩa đen là các khúc, ở đây dịch là “mục”]. Như các chi thể trong một thân thể được phân chia thành nhiều khúc, thì cũng vậy, trong việc tuyên xưng đức tin, từng điều riêng rẽ chúng ta phải tin cũng được gọi cách thích hợp và chính đáng là một articulum.”5 Theo một truyền thống cổ xưa, được thánh Ambrôsiô xác nhận, người ta quen liệt kê mười hai mục trong kinh Tin Kính, để nói lên một cách tượng trưng, dựa theo số các Tông Đồ, kinh đó bao gồm đức tin tông truyền.6

192. Qua các thế kỷ, để đáp ứng những nhu cầu của các thời đại khác nhau, đã có nhiều Bản tuyên xưng đức tin hoặc Tín biểu: những Tín biểu của các Giáo Hội thời các Tông Đồ và thời cổ xưa,7 Tín biểu “Quicumque” được coi là của thánh Athanasiô,8 những Bản tuyên xưng đức tin của một số Công đồng (như Tôlêđô;9 Latêranô;10 Lyon;11 Tri-đen-ti-nô12), hay của một số vị Giáo Hoàng như “Bản tuyên xưng đức tin” của Đức Giáo Hoàng Đamasô,13 hoặc “Kinh Tin Kính của dân Thiên Chúa” do Đức Phao-lô VI soạn thảo (1968).14

193. Không một Tín biểu nào xuất phát từ những thời đại khác nhau của đời sống Hội Thánh có thể bị coi là lỗi thời và vô ích. Các Tín biểu này giúp chúng ta ngày nay biết được và thấu hiểu đức tin ngàn đời của Hội Thánh, thông qua các bản tóm lược đã được thực hiện.

Trong tất cả các Tín biểu, có hai bản chiếm một địa vị rất đặc biệt trong đời sống Hội Thánh:

194. Tín biểu của các Tông Đồ: bản này được gọi như vậy bởi vì được coi, một cách chính xác, như bản tóm lược trung thành đức tin của các Tông Đồ. Đây là Tín biểu dùng khi rửa tội, được Giáo Hội Rô-ma sử dụng từ thời xa xưa. Do đó, bản này có một uy thế lớn lao: “Đây là Tín biểu mà Giáo Hội Rô-ma bảo tồn, đó là nơi thánh Phê-rô, thủ lãnh các Tông Đồ, đã đặt tông tòa và là nơi ngài đã đem đức tin chung của Hội Thánh đến.”15

195. 242, 245, 465

Tín biểu được gọi là Ni-xê-a – Constantinôpôli có một uy thế lớn lao vì phát xuất từ hai Công đồng chung đầu tiên (năm 325 và năm 381). Cho đến nay, bản này vẫn còn là gia sản chung của tất cả các Giáo Hội lớn của Đông phương và Tây phương.

196. Sách Giáo Lý này trình bày đức tin theo Tín biểu của các Tông Đồ, vì bản này có thể nói được là “giáo lý Rô-ma cổ xưa nhất.” Tuy nhiên, phần trình bày sẽ được bổ túc bằng cách thường xuyên tham chiếu Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli vì bản này thường rõ ràng và chi tiết hơn.

197. 1064, 1274

Cũng như trong ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội, khi trọn cuộc sống của chúng ta được ủy thác cho “quy luật đạo lý” (Rm 6,l7), chúng ta hãy đón nhận Tín biểu, để nhờ đó chúng ta được sống. Khi đọc kinh Tin Kính với lòng tin, chúng ta được hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và cũng được hiệp thông với Hội Thánh phổ quát, là người lưu truyền đức tin cho chúng ta, và chính trong lòng Hội Thánh mà chúng ta tin:

“Tín biểu là dấu ấn thiêng liêng, là điều chúng ta tâm niệm, và như là người canh giữ luôn hiện diện, chắc chắn đó là kho tàng của linh hồn chúng ta.”16


Đề mục

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Bài này đã được xem 5606 lần!

Pages ( 8 of 96 ): <1 ... 67 8 910 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]