GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

Sự sinh sản trong hôn nhân (2366-2372) [1652-1653]

2366. Sự sinh sản là một hồng ân, một mục đích của hôn nhân, bởi vì tình yêu phu phụ tự nhiên hướng về việc sinh sản. Đứa con không phải là cái gì từ bên ngoài được thêm vào tình yêu hỗ tương của đôi phối ngẫu; nó xuất hiện ngay ở trọng tâm của việc hai người hiến thân cho nhau; nó là hoa trái và là sự hoàn thành của việc hiến thân cho nhau đó. Như vậy, Hội Thánh, vốn “đứng về phe sự sống”,112 dạy rằng “bất cứ hành vi hôn nhân nào, tự nó, vẫn luôn được nhắm đến việc sinh sản sự sống con người.”113 “Đạo lý này, thường được Huấn quyền trình bày, dựa trên sự liên kết bất khả phân ly, do Thiên Chúa ấn định, điều mà con người không được phép tự ý cắt đứt, giữa ý nghĩa kết hợp và ý nghĩa sinh sản, cả hai đều thuộc về một hành vi phu phụ.”114

2367. 2205

Là những người được kêu gọi trao tặng sự sống, đôi phối ngẫu tham dự vào quyền năng tạo dựng và tình phụ tử của Thiên Chúa.115 “Trong bổn phận lưu truyền sự sống con người và giáo dục, điều phải được coi như sứ vụ riêng của mình, đôi phối ngẫu biết rằng mình là những cộng tác viên của tình yêu Thiên Chúa và như những người diễn đạt tình yêu của Ngài. Vì vậy, họ sẽ chu toàn nhiệm vụ của mình bằng trách nhiệm của một con người và của một Ki-tô hữu.”116

2368. Một khía cạnh đặc biệt của trách nhiệm liên quan đến việc điều hòa sinh sản. Khi có lý do chính đáng,117 đôi phối ngẫu có thể muốn tách rời khoảng cách các lần sinh con. Chính họ có bổn phận phải chứng thực rằng lựa chọn đó của họ không do sự ích kỷ mù quáng, nhưng là một lựa chọn phù hợp với lòng quảng đại chính đáng của tình phụ tử có trách nhiệm. Ngoài ra, họ phải hành động theo những tiêu chuẩn khách quan của luân lý:

“Khi cần hòa hợp tình yêu phu phụ với việc sinh sản con cái có trách nhiệm, phải ý thức rằng giá trị luân lý của hành động không chỉ lệ thuộc vào ý muốn thành thực và việc cân nhắc các lý do, nhưng phải được thẩm định theo những tiêu chuẩn khách quan, rút ra từ bản tính của nhân vị và bản chất của các hành vi nơi nhân vị: những tiêu chuẩn đó tôn trọng ý nghĩa trọn vẹn của sự hiến thân cho nhau và của việc sinh sản con cái, trong bối cảnh tình yêu đích thực. Đó là điều không thể thực hiện được nếu không thực tâm vun trồng đức khiết tịnh phu phụ.”118

2369. “Khi duy trì hai khía cạnh căn bản là kết hợp và sinh sản, hành vi phu phụ giữ được toàn vẹn ý nghĩa của tình yêu hỗ tương và chân thực, và sự quy hướng của tình yêu đó về nhiệm vụ hết sức cao cả là làm cha làm mẹ.”119

2370. Sự tiết dục từng thời kỳ, những phương pháp điều hòa sinh sản dựa trên việc tự quan sát và chu kỳ những thời gian không thể thụ thai,120 là phù hợp với các tiêu chuẩn khách quan của luân lý. Những phương pháp này tôn trọng thân thể của đôi phối ngẫu, khuyến khích họ âu yếm nhau và cổ võ cho việc giáo dục về tự do đích thực. Trái lại, tự bản chất đều là xấu, “bất cứ hành vi nào trước, trong, hoặc sau cuộc trao đổi phu phụ, nhằm mục đích hay tạo phương thế ngăn cản sự sinh sản.”121

“Như thế, thay vì là một ngôn ngữ tự nhiên diễn tả sự hiến thân hỗ tương và trọn vẹn giữa đôi phối ngẫu, việc ngăn cản sự thụ thai đưa ra một ngôn ngữ biểu lộ sự mâu thuẫn khách quan, rõ ràng không còn phải là sự hiến thân cho nhau cách trọn vẹn nữa: từ đó, không những có sự khước từ tích cực không mở ngỏ cho sự sống, mà còn có sự giả tạo về chân lý nội tại của chính tình yêu phu phụ, một tình yêu hướng tới sự hiến thân cho nhau bằng toàn bộ nhân vị… Sự khác biệt về nhân học đồng thời về luân lý giữa việc ngăn cản sự thụ thai với việc tôn trọng những khoảng cách thời gian… bao hàm hai loại quan niệm về nhân vị và về tính dục, không thể kết hợp hai quan niệm đó với nhau.”122

2371. 1703

“Ngoài ra, mọi người đều phải ý thức rằng sự sống con người và nhiệm vụ lưu truyền sự sống không chỉ bị giới hạn ở đời này: việc đánh giá chân thật và ý nghĩa đầy đủ của chúng chỉ có thể hiểu được khi quy chiếu về vận mệnh vĩnh cửu của con người.”123

2372. 2209

Nhà Nước có trách nhiệm về sự thịnh vượng của các công dân. Trên danh nghĩa này, Nhà Nước can thiệp để định hướng sự gia tăng dân số là điều hợp pháp. Nhà Nước có thể làm điều đó qua việc thông tin khách quan và tôn trọng tự do, nhưng không được dùng biện pháp độc tài và cưỡng bách. Nhà Nước không thể thay thế cách hợp pháp sáng kiến của đôi phối ngẫu, là những người đầu tiên có trách nhiệm về việc sinh sản và giáo dục con cái của họ.124 Trong lãnh vực này, quyền bính không được can thiệp bằng những phương thế trái với luật luân lý.

Con cái là tặng phẩm của Thiên Chúa (2373-2379)

2373. Sách Thánh và thực hành truyền thống của Hội Thánh thấy trong những gia đình đông con một dấu chỉ của sự chúc lành thần linh và lòng quảng đại của cha mẹ.125

2374. 1654

Nỗi đau khổ của những đôi phối ngẫu kết hôn mà không thể sinh con thật là to lớn. “Ông Áp-ra-ham thưa: Lạy Chúa là Chúa Thượng, Chúa sẽ ban cho con cái gì? Con ra đi mà không con cái’” (St 15,2). Bà Rakhel nói với chồng mình là Giacob: “Cho tôi có con đi, không thì tôi chết mất!” (St 30,1).

2375. 2293

Những nghiên cứu nhằm giảm thiểu các trường hợp vô sinh của con người phải được khuyến khích, nếu chúng phục vụ “con người, các quyền bất khả nhượng cũng như lợi ích đích thực và toàn vẹn của con người, đúng theo kế hoạch và ý muốn của Thiên Chúa.”126

2376. Những kỹ thuật phá vỡ liên hệ phụ mẫu qua sự can thiệp của một người ngoài cuộc hôn nhân (cho tinh dịch hoặc noãn bào, cho mượn tử cung) là những hành vi đáng hổ thẹn cách nghiêm trọng. Những kỹ thuật này (thụ tinh nhân tạo và thụ thai nhân tạo khác nguồn) vi phạm quyền của đứa con, là phải được sinh ra do cha và mẹ được biết là đã chính thức kết hôn. Những kỹ thuật này phản lại “quyền độc hữu [của đôi phối ngẫu], là chỉ nhờ nhau mà cả hai mới được làm cha, làm mẹ.”127

2377. Nếu được thực hiện bên trong hôn nhân (thụ tinh nhân tạo và thụ thai nhân tạo cùng nguồn), những kỹ thuật này có lẽ sẽ ít tổn hại hơn; nhưng về mặt luân lý, chúng vẫn không thể được chấp nhận. Chúng tách rời hành vi tính dục khỏi hành vi sinh sản. Hành vi đặt nền cho sự hiện hữu của đứa con không còn là hành vi hiến thân cho nhau của hai nhân vị nữa, nhưng lại là hành vi “trao sự sống và căn tính của phôi thai con người cho quyền lực của các bác sĩ và các nhà sinh học, và như vậy, thiết lập một sự thống trị nào đó của kỹ thuật trên nguồn gốc và số phận của nhân vị. Sự thống trị như vậy, tự bản chất, đi ngược với phẩm giá và sự bình đẳng, những điều đó phải là chung cho cả cha mẹ lẫn con cái.”128 “Về phương diện luân lý, việc sinh sản này mất đi sự hoàn hảo riêng của nó, khi nó không được nhắm tới như là kết quả của hành vi phu phụ, hoặc hành vi kết hợp riêng của đôi phối ngẫu… Ngoài ra, chỉ có sự tôn trọng mối dây liên kết giữa những ý nghĩa của hành vi phu phụ và sự tôn trọng tính thống nhất của hữu thể nhân linh mới làm cho sự sinh sản xứng hợp với phẩm giá con người.”129

2378. Đứa con không phải là một của nợ (debitum), nhưng là một tặng phẩm (donum). “Tặng phẩm tuyệt hảo của hôn nhân” là một nhân vị. Đứa con không thể được coi như một vật sở hữu, như người ta thường nghĩ là mình có “quyền có con.” Trong lãnh vực nầy, chỉ đứa con mới thật sự có những quyền: “quyền được hiện hữu với tư cách là hoa trái phát xuất từ hành vi riêng của tình yêu phu phụ của cha mẹ nó, chính nó có quyền được tôn trọng như một nhân vị ngay từ lúc mới tượng thai.”130

2379. Tin Mừng cho thấy sự vô sinh thể lý không phải là một điều xấu tuyệt đối. Đôi phối ngẫu nào, sau khi đã tận dụng mọi trợ giúp chính đáng của y khoa, vẫn phải chịu nỗi đau khổ vô sinh, hãy kết hợp với thập giá của Chúa, là nguồn mạch mọi sự sinh sôi nảy nở thiêng liêng. Họ có thể nói lên lòng quảng đại của mình, bằng cách nhận làm nghĩa tử những đứa trẻ bị bỏ rơi và bằng cách tham gia việc phục vụ tha nhân.

IV. Những xúc phạm đến phẩm giá hôn nhân (2380-2391)

Ngoại tình (2380-2381)

2380. 1611

Ngoại tình. Từ này chỉ sự không chung thủy phu phụ. Khi hai người, mà ít là một trong hai đã có dây hôn phối, có quan hệ tính dục với nhau, kể cả nhất thời, thì phạm tội ngoại tình. Đức Ki-tô lên án tội ngoại tình, ngay cả khi chỉ là ngoại tình trong ước muốn đơn giản.131 Điều răn thứ sáu và Tân Ước tuyệt đối cấm ngoại tình.132 Các Tiên tri tố giác tính nghiêm trọng của tội ngoại tình. Các ngài thấy tội ngoại tình là hình ảnh của tội thờ ngẫu tượng.133

2381. 1640

Ngoại tình là một sự bất công. Người phạm tội đó bỏ không thực hiện những cam kết của mình. Người đó làm tổn thương dấu chỉ của giao ước là dây liên kết hôn nhân, vi phạm quyền của người phối ngẫu kia, và xâm phạm thể chế hôn nhân khi vi phạm hôn ước, là nền tảng của thể chế đó. Người đó làm phương hại đến điều thiện hảo của việc sinh sản và của con cái, vốn cần đến sự kết hợp bền vững của cha mẹ.

Ly dị (2382-2386)

2382. 1614

Chúa Giê-su nhấn mạnh đến ý định nguyên thủy của Đấng Tạo Hóa, Ngài đã muốn rằng hôn nhân là bất khả phân ly.134 Người bãi bỏ những nhân nhượng đã được xen vào trong Luật cũ.135 Giữa những người đã chịu Phép Rửa, “hôn nhân thành nhận và hoàn hợp (ratum et consummatum) không thể được tháo gỡ do bất cứ quyền bính nhân loại nào, và vì bất cứ lý do nào, trừ lý do tử vong.”136

2383. 1649

Việc ly thân (separatio) của đôi phối ngẫu, nhưng vẫn duy trì dây liên kết hôn nhân, có thể là hợp pháp trong một số trường hợp đã được Giáo Luật dự liệu.137 Nếu việc ly dị dân sự vẫn còn là phương cách duy nhất để bảo đảm một số quyền lợi hợp pháp, như việc chăm sóc con cái hoặc bảo vệ gia sản, thì có thể chịu đựng mà không lỗi phạm về luân lý.

2384. 1650

Ly dị là một xúc phạm nghiêm trọng đối với luật tự nhiên. Ly dị cố ý phá vỡ khế ước đã được đôi phối ngẫu tự do ưng thuận, để sống với nhau cho đến chết. Ly dị làm tổn thương Giao ước cứu độ mà bí tích Hôn Phối là dấu chỉ. Sự tái hôn, mặc dầu được luật dân sự công nhận, càng làm cho tình trạng đổ vỡ thêm nghiêm trọng: người tái hôn, sau khi ly dị, sống trong tình trạng ngoại tình công khai và thường xuyên:

“Người nam, sau khi bỏ vợ, không được lấy người khác. Người nữ bị chồng bỏ, cũng không được làm vợ người khác.”138

2385. Ly dị cũng mang tính vô luân do sự xáo trộn nó đưa vào tế bào gia đình và vào xã hội. Sự xáo trộn này kéo theo những tổn hại nghiêm trọng: cho người phối ngẫu bị ruồng bỏ; cho con cái, bị tổn thương sâu xa bởi sự phân ly của cha mẹ, và thường bị dằng co giữa cha và mẹ; vì hậu quả lây lan của nó, ly dị thật sự là một tai ương cho xã hội.

2386. 1640

Có thể xảy ra là một người trong đôi phối ngẫu là nạn nhân vô tội của việc ly dị do tòa án dân sự công bố; lúc đó người này không vi phạm mệnh lệnh luân lý. Có sự khác biệt đáng lưu ý giữa người phối ngẫu thành thật cố gắng trung thành với bí tích Hôn Phối và bị ruồng bỏ cách bất công, với người phối ngẫu, do trọng tội về phía mình, phá hủy hôn nhân đã thành sự theo Giáo Luật.139

Những xúc phạm khác đến phẩm giá hôn nhân (2387-2391)

2387. 1610

Chúng ta hiểu được bi kịch của một người, vì muốn hối cải để theo Tin Mừng, bắt buộc phải từ bỏ một hoặc nhiều người vợ đã chung sống nhiều năm. Tuy nhiên, tục đa thê không phù hợp với luật luân lý. “Tục đa thê tuyệt đối nghịch lại với sự hiệp thông phu phụ: quả vậy, tục đa thê trực tiếp khước từ ý định của Thiên Chúa, như đã được mặc khải ngay từ những buổi đầu, bởi vì nó không phù hợp với phẩm giá bình đẳng và cá vị của người nam và người nữ, những người tự hiến cho nhau bằng một tình yêu trọn vẹn, và vì vậy, tự bản chất là một tình yêu duy nhất và độc hữu.”140 Ki-tô hữu nào, trước kia là người đa thê, bị buộc nặng theo đức công bằng, phải tôn trọng những bổn phận đã ký kết liên quan đến các bà vợ ngày trước và con cái của mình.

2388. 2356, 2207

Loạn luân chỉ những quan hệ tính dục giữa những người họ hàng cùng huyết tộc hoặc họ hàng gần, ở một cấp bậc cấm kết hôn với nhau.141 Thánh Phao-lô lên án tội lỗi đặc biệt nghiêm trọng này: “Đi đâu cũng chỉ nghe nói đến chuyện dâm ô xảy ra giữa anh em… có kẻ ăn ở với vợ kế của cha mình!… Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô… chúng ta phải nộp con người đó cho Xa-tan để phần xác nó bị hủy diệt” (1 Cr 5,1.4-5)… Loạn luân phá vỡ những tương quan gia đình và cho thấy một sự thoái hóa trở về thú tính.

2389. 2285

Có thể kể là loạn luân, những lạm dụng tính dục do những người trưởng thành thực hiện đối với trẻ con hoặc thiếu niên đã được ủy thác cho họ trông coi. Lỗi phạm này tăng gấp đôi: một mặt vì gây gương xấu xâm phạm đến sự toàn vẹn thể lý và luân lý của các người trẻ, và còn để lại dấu ấn suốt cuộc đời chúng, mặt khác vì họ xâm phạm trách nhiệm giáo dục của mình.

2390. 1631, 2353, 1385

Tự do sống chung (libera iunctio) là khi một người nam và một người nữ từ chối thực hiện một hình thức pháp lý và công khai cho mối liên hệ bao hàm sự thân mật về tính dục.

Kiểu nói “tự do sống chung” là dối trá, vì có nghĩa gì một sự sống chung không hôn nhân, trong đó những nhân vị không bị ràng buộc với nhau và như vậy, chứng tỏ rằng họ không tin tưởng vào người kia, vào chính mình, hoặc vào tương lai?

Kiểu nói này chỉ nhiều trường hợp khác nhau: ăn ở với nhau không cưới xin, từ chối kết hôn theo đúng tính chất của hôn nhân, không thể ràng buộc nhau bằng những cam kết dài lâu.142 Tất cả những trường hợp này đều xúc phạm đến phẩm giá của hôn nhân; chúng phá hủy chính ý niệm về gia đình; chúng làm suy giảm ý nghĩa của lòng chung thủy. Chúng nghịch với luật luân lý: hành vi tính dục chỉ được chấp nhận trong hôn nhân; ngoài hôn nhân, hành vi này luôn luôn là một tội trọng và người vi phạm bị loại ra khỏi sự hiệp thông bí tích.

2391. 2364

Ngày nay, nhiều người đòi hỏi “quyền thử nghiệm”, khi có ý định kết hôn. Nhưng dù quyết tâm của những người có quan hệ tính dục tiền hôn nhân có chắc chắn đến đâu đi nữa, thì “những quan hệ đó cũng không cho phép bảo đảm cách an toàn nhu cầu hỗ tương giữa các nhân vị, là người nam và người nữ, là sự chân thành và sự chung thuỷ, nhất là chẳng giúp nhu cầu đó được bảo vệ khỏi sự thay đổi những ham muốn và lựa chọn.”143 Về phương diện luân lý, sự kết hợp thể xác chỉ hợp pháp khi một cộng đồng sống vĩnh viễn giữa người nam và người nữ đã được thiết lập. Tình yêu của con người không chấp nhận “thử nghiệm.” Tình yêu đó đòi hỏi sự hiến thân cho nhau trọn vẹn và vĩnh viễn của cả hai người.144

Tóm lược (2392-2400)

2392. “Tình yêu là ơn gọi căn bản và thuộc bản tính của mỗi con người.”145

2393. Khi tạo dựng con người có nam có nữ, Thiên Chúa đã ban cho người nam và người nữ sự bình đẳng về nhân phẩm. Mỗi người, nam cũng như nữ, phải nhận biết và chấp nhận căn tính tính dục của mình.

2394. Đức Ki-tô là khuôn mẫu của đức khiết tịnh. Mọi người đã chịu Phép Rửa đều được kêu gọi sống đời khiết tịnh tùy theo bậc sống riêng của mình.

2395. Sự khiết tịnh là việc hòa nhập thành công tính dục trong nhân vị. Nó đòi hỏi việc tập luyện sự tự chủ cá vị.

2396. Trong số các tội nghịch với đức khiết tịnh cách nghiêm trọng, phải kể: thủ dâm, gian dâm, hình ảnh khiêu dâm, và các hành động đồng tính luyến ái.

2397. Giao ước, đã được đôi phối ngẫu ký kết cách tự do, bao hàm tình yêu chung thuỷ. Giao ước đó đòi buộc đôi phối ngẫu gìn giữ hôn nhân của mình bất khả phân ly.

2398. Sự sinh sản là một điều thiện hảo, một hồng ân, một mục đích của hôn nhân. Khi ban tặng sự sống, đôi phối ngẫu tham dự vào quyền phụ tử của Thiên Chúa.

2399. Việc điều hòa sinh sản là một trong những phương diện thể hiện tư cách làm cha làm mẹ có trách nhiệm. Nhưng ý hướng hợp pháp của đôi phối ngẫu không biện minh cho việc sử dụng các phương thế không thể chấp nhận về mặt luân lý (thí dụ trực tiếp triệt sản hoặc chống thụ thai).

Bài này đã được xem 5664 lần!

Pages ( 80 of 96 ): <1 ... 7879 80 8182 ... 96>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]