2430. Đời sống kinh tế liên quan đến nhiều quyền lợi khác nhau, thường đối nghịch nhau. Từ đó thường sinh ra các xung đột, là đặc điểm của đời sống kinh tế.176 Phải cố gắng giải quyết các xung đột bằng thương lượng, dựa trên sự tôn trọng các quyền lợi và bổn phận của mỗi thành phần xã hội: ban điều hành các xí nghiệp, đại diện công nhân, chẳng hạn các tổ chức nghiệp đoàn, và đôi khi, công quyền.
2431. 1908, 1883
Trách nhiệm của Nhà Nước. “Hoạt động kinh tế, nhất là kinh tế thị trường, không thể triển khai trong một môi trường không có thể chế pháp lý và chính trị. Trái lại, hoạt động kinh tế giả thiết rằng các quyền tự do cá nhân và quyền tư hữu phải được bảo đảm, cũng như một hệ thống tiền tệ ổn định và các dịch vụ công cộng hữu hiệu. Như vậy, nhiệm vụ chủ yếu của Nhà Nước là bảo đảm những vấn đề trên, để những người lao động và sản xuất có thể hưởng kết quả do sức lao động của họ, và nhờ đó họ cảm thấy được khích lệ để làm việc một cách có hiệu quả và lương thiện… Một nhiệm vụ khác của Nhà Nước là phải giám sát và hướng dẫn việc thực thi các quyền con người trong lãnh vực kinh tế; tuy nhiên, trong lãnh vực này, trách nhiệm hàng đầu không thuộc về Nhà Nước, nhưng thuộc về các cá nhân, các nhóm, và các tập thể khác nhau tạo nên xã hội.”177
2432. 2415
Những người lãnh đạo xí nghiệp chịu trách nhiệm trước xã hội về mặt kinh tế và sinh thái của công việc làm ăn của mình.178 Họ buộc phải quan tâm đến lợi ích của con người chứ không chỉ lo gia tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, lợi nhuận là cần thiết. Chúng cho phép thực hiện những đầu tư để bảo đảm tương lai của các xí nghiệp. Chúng bảo đảm công ăn việc làm.
2433. Quyền có việc làm và chọn nghề phải được mở ngỏ cho mọi người, không được kỳ thị cách bất công, cho người nam và người nữ, cho người khỏe mạnh và đau yếu, cho người địa phương và người di cư.179 Về phần mình, tùy hoàn cảnh, xã hội phải giúp đỡ để các công dân tìm được công ăn việc làm.180
2434. 1867
Tiền lương công bằng là kết quả hợp pháp của lao động. Không trả hoặc giữ tiền lương lại, có thể là một bất công nghiêm trọng.181 Để định giá việc trả lương cách công bằng, phải đồng thời lưu ý đến các nhu cầu và các đóng góp của mỗi người. “Căn cứ vào nhiệm vụ và năng suất của mỗi người, vào tình trạng của xí nghiệp và công ích, việc trả lương cho lao động phải bảo đảm cho con người khả năng xây dựng một cách xứng đáng cho mình và cho những người thuộc về mình một đời sống vật chất, xã hội, văn hóa và tinh thần.”182 Sự thỏa thuận giữa chủ và thợ không đủ để biện minh về mặt luân lý cho số tiền trả lương.
2435. Sự đình công là hợp pháp về mặt luân lý, khi đó là một phương thế không thể tránh được, hoặc thậm chí là cần thiết, để đạt được lợi ích tương xứng. Sự đình công là không thể chấp nhận được về mặt luân lý, khi kèm theo bạo động, hoặc hơn thế nữa, nếu được dùng để nhằm những mục tiêu không trực tiếp liên hệ đến các điều kiện làm việc hoặc những mục tiêu nghịch với công ích.
2436. Không đóng góp lệ phí cho những tổ chức an sinh xã hội do quyền bính hợp pháp quy định, là điều bất công.
Nạn thất nghiệp vì thiếu việc làm hầu như luôn làm tổn thương phẩm giá của nạn nhân và đe dọa sự quân bình của đời sống. Ngoài sự thiệt hại mà cá nhân người đó phải gánh chịu, nạn thất nghiệp còn đem lại nhiều nguy cơ cho gia đình họ.183
V. Sự công bằng và tình liên đới giữa các quốc gia (2437-2442)
2437. 1938
Trên bình diện quốc tế, sự bất bình đẳng về các nguồn tài nguyên và các phương tiện kinh tế là hết sức lớn lao, đến nỗi nó gây nên một “hố sâu” thật sự giữa các quốc gia.184 Một bên là những quốc gia nắm giữ và gia tăng các phương tiện phát triển, bên kia là những quốc gia nợ nần chồng chất.
2438. 1911, 2315
Nhiều nguyên do khác nhau về tôn giáo, chính trị, kinh tế và tài chính, khiến cho “vấn đề xã hội ngày nay mang một chiều kích quốc tế.”185 Tình liên đới là cần thiết giữa các quốc gia vốn có liên hệ chính trị phụ thuộc lẫn nhau. Tình liên đới còn hết sức cần thiết khi vấn đề là phải loại trừ những “cơ chế máy móc bất nhân” gây chướng ngại cho sự phát triển của các quốc gia chậm tiến.186 Thay vào các hệ thống kinh tài đầy lạm dụng hoặc thậm chí bóc lột,187 những tương quan thương mại bất công giữa các quốc gia, việc chạy đua vũ trang, cần phải có một nỗ lực chung để huy động các nguồn tài nguyên vào những mục tiêu phát triển luân lý, văn hóa và kinh tế “trước hết bằng việc làm sáng tỏ những vấn đề quan trọng nhất và các bậc thang các lợi ích, dựa theo đó… mà đề ra những kế hoạch.”188
2439. Các nước giàu có trách nhiệm luân lý nghiêm trọng đối với các nước không thể tự bảo đảm cho mình sự phát triển hoặc bị ngăn cản không phát triển được vì những biến cố lịch sử bi thảm. Đây là một bổn phận của tình liên đới và bác ái; đây cũng là sự bắt buộc của đức công bằng, nếu sự sung túc của các nước giàu là do những tài nguyên đã không được trả tiền cách công bằng.
2440. Việc viện trợ trực tiếp là giải pháp thích hợp đáp ứng những nhu cầu trước mắt và đột xuất, chẳng hạn do thiên tai, nạn dịch, v.v… Nhưng việc viện trợ này không đủ để bù đắp những thiệt hại nghiêm trọng do hoàn cảnh túng thiếu, cũng không thể trường kỳ đáp ứng các nhu cầu được. Phải cải tổ các thể chế kinh tế và tài chánh quốc tế, để chúng cổ võ cách tốt hơn những tương quan công bằng với các nước kém phát triển.189 Phải nâng đỡ nỗ lực của các nước nghèo đang phấn đấu để tự phát triển và tự giải phóng mình.190 Điều này phải được áp dụng cách hết sức đặc biệt trong lãnh vực lao động nông nghiệp. Các nông dân, nhất là ở thế giới thứ ba, là thành phần hết sức đông đảo trong số những người nghèo.
2441. 1908
Gia tăng cảm thức về Thiên Chúa và sự hiểu biết chính mình là nền tảng của mọi phát triển trọn vẹn xã hội loài người. Sự phát triển này làm sinh sôi nảy nở các của cải vật chất và dùng chúng vào việc phục vụ con người và sự tự do của con người. Sự phát triển này làm giảm bớt nỗi khốn cùng và sự lạm dụng kinh tế. Nó làm gia tăng sự tôn trọng đối với các bản sắc văn hóa và đối với việc mở ngỏ hướng tới chiều kích siêu việt.191
2442. 899
Sự can thiệp trực tiếp vào cơ cấu chính trị và vào việc tổ chức đời sống xã hội không thuộc về các mục tử của Hội Thánh. Nhiệm vụ này là một phần ơn gọi của các tín hữu giáo dân, là những người hành động bằng sáng kiến riêng cùng với đồng bào của mình. Hành động xã hội có thể bao hàm nhiều đường lối cụ thể. Hành động đó phải luôn nhắm tới công ích và phù hợp với sứ điệp Tin Mừng và với giáo huấn của Hội Thánh. Các tín hữu giáo dân có bổn phận “đem nhiệt tình Ki-tô Giáo làm sinh động các thực tại trần thế, và trong đó tỏ ra mình là những chứng nhân và những người xây dựng công lý và hòa bình.”192
VI. Yêu thương người nghèo (2443-2449) [2544-2547]
2443. 786, 525, 544, 853
Thiên Chúa chúc phúc cho những ai giúp đỡ người nghèo, và kết án những ai quay lưng lại với họ. “Ai xin thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5,42). “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10,8). Chúa Giê-su Ki-tô nhận biết những kẻ được tuyển chọn của Người căn cứ vào những gì họ đã làm cho những người nghèo.193 Khi “kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,5),194 thì đó là dấu chỉ sự hiện diện của Đức Ki-tô.
2444. 1716
“Lòng yêu mến của Hội Thánh đối với người nghèo… được tiếp nối liên tục trong kinh nghiệm truyền thống của Hội Thánh.”195 Tình yêu đó được linh hứng bởi Tin Mừng của các mối phúc,196 bởi sự khó nghèo của Chúa Giê-su197 và sự quan tâm của Người đối với kẻ nghèo.198 Tình yêu đối với người nghèo cũng là một trong những động lực thúc đẩy bổn phận làm việc để “có gì chia sẻ với người túng thiếu.”199 Điều này không chỉ giới hạn ở sự nghèo khó về vật chất, nhưng còn hướng tới nhiều hình thức nghèo đói về văn hóa và tôn giáo.200
2445. 2536, 2547
Tình yêu đối với người nghèo không thể đi đôi với tình yêu vô độ đối với của cải hoặc việc sử dụng của cải cách ích kỷ:
“Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các ngươi hãy than van rên rỉ về những tai họa sắp đổ xuống trên đầu các ngươi. Tài sản của các ngươi đã hư nát, quần áo của các ngươi đã bị mối ăn. Vàng bạc của các ngươi đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các ngươi; nó sẽ như lửa thiêu hủy xác thịt các ngươi. Các ngươi đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này. Các ngươi đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các ngươi. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các ngươi, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh. Trên cõi đất này, các ngươi đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các ngươi đã được no đầy thỏa mãn trong ngày sát hại. Các người đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các người” (Gc 5,1-6).
2446. 2402
Thánh Gio-an Kim Khẩu nhắc lại điều này một cách mạnh mẽ: “Không cho kẻ nghèo được chia sẻ của cải thuộc về mình, là ăn cắp của họ và cướp lấy mạng sống của họ;… của cải chúng ta đang nắm giữ, không phải là của chúng ta, nhưng là của họ.”201 “Phải thỏa mãn những đòi hỏi của đức công bằng trước đã, kẻo những tặng phẩm đem cho, tưởng là vì bác ái, mà thật ra là phải đền trả vì đức công bằng.”202
“Khi tặng bất cứ thứ gì cần thiết cho người nghèo, thì không phải chúng ta tặng những gì của chúng ta, nhưng là chúng ta trả lại cho họ những gì là của họ; chúng ta trả nợ theo đức công bằng, hơn là chúng ta làm những việc từ thiện.”203
2447. 1460, 1038, 1969, 1004
Các việc từ thiện là những hành vi bác ái, qua đó chúng ta giúp đỡ tha nhân những gì cần thiết cho thể xác và tinh thần của họ.204 Dạy dỗ, khuyên nhủ, an ủi, khích lệ là những việc từ thiện về mặt tinh thần, cũng như tha thứ và nhẫn nhục chịu đựng. Các việc từ thiện về mặt vật chất gồm có: cho kẻ đói ăn, cho kẻ vô gia cư tạm trú, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng bệnh nhân và kẻ tù đày, chôn xác kẻ chết.205 Trong các công việc đó, bố thí cho người nghèo206 là một trong những bằng chứng chủ yếu của tình bác ái huynh đệ; đó cũng là việc thực thi đức công bằng làm đẹp lòng Thiên Chúa:207
“Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (Lc 3,11). “Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các ngươi” (Lc 11,41). “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,15-16).208
2448. 386, 1586
“Sự khốn cùng của con người xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: cùng cực về của cải vật chất, sự đàn áp bất công, các bệnh tật thể lý và tâm thần, sau cùng là cái chết; tất cả những sự khốn cùng của con người này là dấu chỉ cho thấy tình trạng yếu đuối nguyên thủy, mà sau tội đầu tiên của ông A-đam, con người sống trong đó, và đó cũng là dấu chỉ cho thấy sự cần thiết của ơn cứu độ; những nỗi khốn cùng đó đã lôi kéo lòng thương xót của Đức Ki-tô, Đấng Cứu độ, Đấng đã muốn mang lấy những nỗi khốn cùng đó khi Người đồng hóa mình với ‘những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây’ (Mt 25,40.45). Vì vậy, những người gặp cảnh khốn cùng được Hội Thánh dành cho nhiều ưu ái hơn; ngay từ đầu, không bị cản trở vì tội lỗi của các phần tử của mình, do bổn phận của mình, Hội Thánh đã không bao giờ ngưng an ủi, bảo vệ và giải thoát những người đó. Thật vậy, Hội Thánh làm điều đó bằng vô số công việc từ thiện, những việc này là cần thiết ở mọi lúc và mọi nơi.”209
2449. 1397, 789
Ngay từ Cựu Ước đã có những chỉ thị pháp lý đủ mọi loại (năm tha nợ, cấm cho vay lấy lãi và cầm cố, nghĩa vụ đóng thuế thập phân, trả lương mỗi ngày, quyền được mót ở ruộng lúa và vườn nho) đáp ứng lời khuyên của sách Đệ Nhị Luật: “Vì trong đất của anh (em) sẽ không thiếu người nghèo. Nên tôi truyền cho anh (em): hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh (em) trong miền đất của anh (em)” (Đnl 15,11). Chúa Giê-su làm cho lời này thành lời của Người: “Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có; còn Thầy, anh em không có mãi đâu” (Ga 12,8). Nói vậy, Chúa Giê-su không muốn giảm nhẹ sự mãnh liệt của những lời tiên tri xưa kia: “Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ” (Am 8,6), nhưng Người mời gọi chúng ta nhận biết sự hiện diện của Người nơi những người nghèo là anh em của Người.210
“Ngày kia, khi thánh Rô-sa Li-ma bị mẹ bà trách vì đã đón nhận những người nghèo, người bệnh vào nhà, bà trả lời mẹ: ‘Khi chúng ta phục vụ những người đau yếu, chúng ta là hương thơm tốt lành của Đức Ki-tô’.”211
Tóm lược (2450-2463)
2450. “Ngươi không được trộm cắp” (Đnl 5,19). “Những kẻ trộm cướp, tham lam… sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp” (1 Cr 6,10).
2451. Điều răn thứ bảy dạy phải giữ đức công bằng và bác ái về những của cải trần thế và thành quả lao động của con người.
2452. Của cải của công trình tạo dựng được dành cho toàn thể nhân loại. Quyền tư hữu của cải không hủy bỏ quyền chung hưởng những của cải này.
2453. Điều răn thứ bảy cấm trộm cắp. Trộm cắp là chiếm đoạt của cải của tha nhân, trái với ý muốn hợp lý của sở hữu chủ.
2454. Mọi cách lấy hoặc giữ cách bất công của cải của tha nhân, đều nghịch với điều răn thứ bảy. Bất công đã lỗi phạm đòi hỏi phải được đền bù. Công bằng giao hoán đòi phải trả lại của cải đã bị lấy cắp.
2455. Luật luân lý cấm các hành vi, vì lợi nhuận hoặc do độc tài, dẫn tới việc nô lệ hóa con người, mua bán hoặc trao đổi họ như hàng hóa.
2456. Quyền thống trị các tài nguyên khoáng chất, thực vật và động vật trong vũ trụ Đấng Tạo hóa đã ban cho con người, không thể được tách biệt khỏi việc phải tôn trọng những nghĩa vụ luân lý, kể cả những nghĩa vụ đối với các thế hệ tương lai.
2457. Thú vật được trao phó cho con người chăm sóc; con người phải đối xử tử tế với chúng. Chúng có thể được dùng để đáp ứng những nhu cầu chính đáng của con người.
2458. Hội Thánh đưa ra phán đoán trong lãnh vực kinh tế và xã hội, khi các quyền căn bản của con người hoặc ơn cứu độ các linh hồn đòi hỏi việc đó. Hội Thánh quan tâm đến các khía cạnh trần thế của công ích vì lý do chúng quy hướng về Sự Thiện tối thượng, là mục đích tối hậu của chúng ta.
2459. Chính con người là chủ thể, trung tâm và cùng đích của toàn bộ đời sống kinh tế và xã hội. Điều quan trọng nhất của vấn đề xã hội là làm thế nào để của cải đã được Thiên Chúa tạo dựng cho mọi người, thật sự đến được với mọi người, theo đức công bằng và với sự trợ giúp của đức bác ái.
2460. Giá trị hàng đầu của lao động thuộc về con người, là tác giả và là mục tiêu của lao động. Nhờ lao động của mình, con người tham dự vào công trình tạo dựng. Khi được kết hợp với Đức Ki-tô, lao động có thể có giá trị cứu chuộc.
2461. Sự phát triển đích thực là sự phát triển con người toàn diện. Vấn đề là khả năng của mỗi nhân vị phải được gia tăng để đáp lại ơn gọi của mình, nghĩa là đáp lời Thiên Chúa, Đấng kêu gọi mình.212
2462. Việc bố thí cho người nghèo là một chứng từ của đức mến Ki-tô Giáo: đó cũng là việc thực thi đức công bằng làm đẹp lòng Thiên Chúa.
2463. Giữa biết bao người không cơm bánh, không nhà cửa, không chốn nương thân, chúng ta lại không nhận ra anh La-da-roo, người hành khất đói khổ trong dụ ngôn sao?213 Làm thế nào lại không nghe Chúa Giê-su nói: “Các ngươi đã không làm cho chính Ta” (Mt 25,45)?
Chú thích
146 X. Đnl 5,19.
147 X. St 1,26-29.
148 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 69: AAS 58 (1966) 1090.
149 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 71: AAS 58 (1966) 1093; ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Solicitudo rei socialis, 42: AAS 80 (1988) 572-574; Id., Thông điệp Centesimus annus, 40: AAS 83 (1991) 843; Ibid., 48: AAS 83 (1991) 852-854.
150 X. 2 Cr 8,9.
151 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 69: AAS 58 (1966) 1090-1091.
152 X. Đnl 25,13-16.
153 X. Đnl 24,14-15; Gc 5,4.
154 X. Am 8,4-6.
155 X. St 1,28-31.
156 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 37-38: AAS 83 (1991) 840-841.
157 X. Mt 6,26.
158 X. Đn 3,79-81.
159 X. St 2,19-20; 9,1-4.
160 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 23: AAS 58 (1966) 1044.
161 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 76: AAS 58 (1966) 1100.
162 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 3: AAS 83 (1991) 794-796.
163 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Sollicitudo rei socialis, 1: AAS 80 (1988) 513-514; Ibid., 41: AAS 80 (1988) 570-572.
164 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 24: AAS 83 (1991) 821-822.
165 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 63: AAS 58 (1966) 1085; ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Laborem exercens, 7: AAS 73 (1981) 592-594; Id., Thông điệp Centesimus annus, 35: AAS 83 (1991) 836-838.
166 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 65: AAS 58 (1966) 1087.
167 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 10: AAS 83 (1991) 804-806; Ibid., 13: AAS 83 (1991) 809-810; Ibid., 44: AAS 83 (1991) 848-849.
168 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 34: AAS 83 (1991) 836.
169 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 64: AAS 58 (1966) 1086.
170 X. St 1,28; CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 34: AAS 58 (1966) 1052-1053; ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 31: AAS 83 (1991) 831-832.
171 X. 1 Tx 4,11.
172 X. St 3,14-19.
173 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Laborem exercens, 27: AAS 73 (1981) 644-647.
174 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Laborem exercens, 6: AAS 73 (1981) 589-592.
175 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 32: AAS 83 (1991) 832-833; Ibid., 34: AAS 83 (1991) 835-836.
176 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Laborem exercens, 11: AAS 73 (1981) 602-605.
177 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 48: AAS 83 (1991) 852-853.
178 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 37: AAS 83 (1991) 840.
179 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Laborem exercens, 19: AAS 73 (1981) 625-629; Ibid., 22-23: AAS 73 (1981) 634-637.
180 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 48: AAS 83 (1991) 852-854.
181 X. Lv 19,13; Đnl 24,14-15; Gc 5,4.
182 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 67: AAS 58 (1966) 1088-1089.
183 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Laborem exercens, 18: AAS 73 (1981) 622-625.
184 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Sollicitudo rei socialis, 14: AAS 80 (1988) 526-528.
185 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Sollicitudo rei socialis, 9: AAS 80 (1988) 520-521.
186 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Sollicitudo rei socialis, 17: AAS 80 (1988) 532-533; Ibid., 45: AAS 80 (1988) 577-578.
187 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 35: AAS 83 (1991) 836-838.
188 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 28: AAS 83 (1991) 828.
189 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Sollicitudo rei socialis, 16: AAS 80 (1988) 531.
190 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 26: AAS 83 (1991) 824-826.
191 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Sollicitudo rei socialis, 32: AAS 80 (1988) 556-557; Id., Thông điệp Centesimus annus, 51: AAS 83 (1991) 856-857.
192 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Sollicitudo rei socialis, 47: AAS 80 (1988) 582; x. Ibid., 42: AAS 80 (1988) 572-574.
193 X.Mt 25,31-36.
194 X. Lc 4,18.
195 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 57: AAS 83 (1991) 862-863.
196 X. Lc 6,20-22.
197 X. Mt 8,20.
198 X. Mc 12,41-44.
199 X. Ep 4,28.
200 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 57: AAS 83 (1991) 863.
201 Thánh Gio-an Kim Khẩu, In Lazarum, concio 2,6: PG 48,992.
202 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 8: AAS 58 (1966) 845.
203 Thánh Grêgôriô Cả, Regula pastoralis, 3, 21, 45: SC 382,394 (PL 77,87).
204 X. Is 58,6-7; Đnl 13,3.
205 X. Mt 25,31-46.
206 X. Tb 4,5-11; Gv 17,18.
207 X. Mt 6,2-4.
208 X. 1 Ga 3,17.
209 Thánh bộ Giáo lý Đức Tin, Huấn thị Libertatis Conscientia, 68: AAS 79 (1987) 583.
210 X. Mt 25,40.
211 P. Hansen, Vita mirabilis […] venerabilis sororis Rosae de sancta Ma-ri-a Limensis (Romae 1664) 200.
212 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 29: AAS 83 (1991) 828-830.
213 X. Lc 16,19-31.
Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)
“Ngươi không được làm chứng gian hại người” (Xh 20,16). “Anh em còn nghe luật dạy người xưa rằng: ‘Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Chúa’” (Mt 5,33).
Bài này đã được xem 5688 lần!