2499. 1903
Ý thức luân lý tố giác tai họa của các Nhà Nước độc tài, xuyên tạc chân lý một cách có hệ thống, dùng các phương tiện truyền thông để thống trị dư luận về chính trị, “giật dây” các bị cáo và chứng nhân trong các vụ án công khai và cho rằng họ củng cố được ách chuyên chế của họ bằng cách ngăn chặn và đàn áp những gì họ coi như “trọng tội về tư tưởng.”
VI. Chân lý, vẻ đẹp và nghệ thuật thánh (2500-2503)
2500. 1804, 341, 2129
Niềm vui tinh thần và vẻ đẹp luân lý, đi đôi với việc thực thi điều thiện. Cũng vậy, chân lý mang lại niềm vui và ánh huy hoàng của vẻ đẹp tinh thần. Chân lý, tự nó, là đẹp. Chân lý được diễn tả bằng lời nói, sự diễn tả hữu lý của nhận thức về thực tại được tạo dựng và không được tạo dựng, là cần thiết cho con người đã được phú ban trí tuệ, nhưng chân lý cũng có thể được con người diễn tả bằng những hình thức khác nhau, để bổ túc cho nhau, nhất là khi vấn đề phải gợi lên lại bao hàm điều khôn tả, những điều sâu thẳm của trái tim con người, những điều cao vời của linh hồn và mầu nhiệm của Thiên Chúa. Ngay trước khi Ngài tự mặc khải cho con người bằng những lời chân lý, Thiên Chúa đã được mặc khải cho họ qua ngôn ngữ phổ quát là công trình tạo dựng, tác phẩm của Ngôi Lời của Ngài, của Đức Khôn Ngoan của Ngài: qua trật tự và sự hài hòa của vũ trụ – cả trẻ thơ lẫn nhà khoa học đều khám phá được -, “vì các thọ tạo càng lớn lao đẹp đẽ, thì càng giúp nhận ra Đấng tạo thành” (Kn 13,5), “vì chính Đấng Tạo hóa mọi loài là tác giả của muôn vẻ đẹp” (Kn 13,3).
Thật vậy, Đức Khôn Ngoan “tỏa ra từ quyền năng Thiên Chúa và rực lên trong ngần từ vinh hiển Đấng Toàn Năng, nên không thể vương một tì ố; Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân hậu của Ngài” (Kn 7,25-26). “Đức Khôn Ngoan rực rỡ hơn mặt trời, trổi vượt muôn tinh tú; so với Đức Khôn Ngoan, ánh sáng còn kém xa. Bởi trước màn đêm, ánh sáng đành phải lui bước. Còn Đức Khôn Ngoan, chẳng gian tà nào thắng nổi” (Kn 7,29-30). “Vẻ đẹp của Đức Khôn Ngoan làm tôi say đắm” (Kn 8,2).
2501. 339
“Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa”,247 con người cũng diễn tả chân lý về tương quan của mình với Thiên Chúa Sáng Tạo bằng vẻ đẹp của các tác phẩm nghệ thuật của mình. Thật vậy, nghệ thuật là một hình thức diễn tả chỉ riêng con người mới có; vượt lên trên việc cố gắng thỏa mãn những nhu cầu sinh tồn, là điều chung của mọi sinh vật, nghệ thuật là sự đầy tràn chan chứa, được ban tặng cách nhưng không, sự giàu sang nội tâm của con người. Xuất phát từ tài năng do Đấng Tạo hóa ban, và từ nỗ lực của chính con người, nghệ thuật là một hình thức của sự khôn ngoan thực tiễn, kết hợp kiến thức với tài khéo léo,248 để tạo hình thể cho chân lý của một thực tại, bằng thứ ngôn ngữ có thể cảm nhận được bằng mắt thấy và bằng tai nghe. Như vậy, nghệ thuật bao hàm một sự tương tự nào đó với hoạt động của Thiên Chúa trong công trình tạo dựng, theo mức độ nghệ thuật được gợi hứng bởi chân lý về vạn vật và lòng yêu mến vạn vật. Cũng như bất cứ hoạt động nào khác của con người, nghệ thuật không có mục đích tuyệt đối nơi chính nó, nhưng được quy hướng về con người, và trở nên cao quý nhờ mục đích tối hậu là con người.249
2502. 1156-1162
Nghệ thuật thánh sẽ thật và đẹp, khi nhờ hình thức thích hợp, nó đáp ứng với ơn gọi riêng của nó: trong đức tin và trong sự tôn thờ, nghệ thuật thánh gợi lên và tôn vinh mầu nhiệm siêu việt của Thiên Chúa, vẻ đẹp siêu phàm vô hình của chân lý và của tình yêu, đã xuất hiện nơi Đức Ki-tô, Đấng “là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa” (Dt 1,3), “nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,9), Người là vẻ đẹp thiêng liêng đang tỏa chiếu nơi Đức Trinh Nữ rất thánh Mẹ Thiên Chúa, nơi các Thiên thần và các Thánh. Nghệ thuật thánh đích thực đưa con người đến việc tôn thờ, việc cầu nguyện và việc yêu mến Thiên Chúa là Đấng Tạo hóa và Cứu Độ, Đấng Thánh Thiện và Thánh Hóa.
2503. Vì vậy, các Giám mục, hoặc chính các ngài hoặc qua các vị đại diện, phải lưu tâm cổ võ nghệ thuật thánh, cổ truyền cũng như hiện đại, trong mọi hình thức của nó, và, cũng với sự lưu tâm đạo hạnh đó, loại trừ khỏi phụng vụ và những nơi thờ phượng mọi điều không phù hợp với chân lý đức tin và với vẻ đẹp đích thực của nghệ thuật thánh.250
Tóm lược (2504-2513)
2504. “Ngươi không được làm chứng gian hại người” (Xh 20,16). Các môn đệ của Đức Ki-tô đã “mặc lấy con người mới là con người đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,24).
2505. Chân lý hoặc sự chân thật là một nhân đức, cốt tại việc con người tỏ ra mình thành thật trong các hành vi của mình, và thành thật trong các lời nói của mình, tránh xa lối sống hai mặt, dối trá và đạo đức giả.
2506. Ki-tô hữu không được “hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa” (2 Tm 1,8) bằng việc làm cũng như bằng lời nói. Sự tử đạo là việc làm chứng cao cả nhất cho chân lý đức tin.
2507. Sự tôn trọng thanh danh và danh dự của các nhân vị cấm mọi thái độ và mọi lời nói nhằm nói xấu hay vu khống.
2508. Nói dối là nói điều sai sự thật, với ý định đánh lừa người lân cận.
2509. Ai lỗi phạm nghịch với chân lý thì buộc phải đền bù.
2510. “Khuôn vàng thước ngọc” (“Regula aurea”), trong những trường hợp cụ thể, giúp chúng ta phân định xem có phải tỏ bày sự thật, hay không tỏ bày, cho người yêu cầu.
2511. “Ấn tín bí tích là điều bất khả xâm phạm.”251 Các bí mật nghề nghiệp phải được giữ kín. Không được tiết lộ những chuyện tâm sự có thể làm hại cho những người khác.
2512. Xã hội có quyền được biết những thông tin dựa trên sự thật, sự tự do, đức công bằng. Phải giữ điều độ và kỷ luật khi sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội.
2513. Mỹ thuật, nhưng chủ yếu là nghệ thuật thánh, “tự bản chất, nhằm diễn tả vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa, được cảm nghiệm một cách nào đó qua những tác phẩm của con người; nghệ thuật này càng làm cho Thiên Chúa được ca tụng và tôn vinh hơn, một khi những tác phẩm đó không nhằm chủ đích nào khác, ngoài sự góp phần tối đa để quy hướng tâm trí con người sốt sắng về cùng Thiên Chúa.”252
Chú thích
214 X. Cn 8,7; 2 Sm 7,28.
215 X. Tv 119,142.
216 X. Lc 1,50.
217 X. Tv 119,30.
218 X. Ga 1,14.
219 X. Ga 14,6.
220 X. Ga 12,46.
221 X. Ga 8,31-32.
222 X. Ga 17,17.
223 X. Ga 14,17.
224 X. Ga 14,26.
225 CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 2: AAS 58 (1966) 931.
226 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, II-II, q. 109, a. 3, ad 1: Ed. Leon. 9, 418.
227 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, II-II, q. 109, a. 3, c: Ed. Leon. 9, 418.
228 X. Ga 18,37.
229 X. Mt 18,16.
230 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad gentes, 11: AAS 58 (1966) 959.
231 Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Romanos, 4, 1: SC 10bis, 110 (Funk 1,256).
232 Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Romanos, 6, 1: SC 10bis, 114 (Funk 1,258-260).
233 Martyrium Polycarpi, 14, 2-3: SC 10bis, 228 (Funk 1,330-332).
234 X. Cn 19,9.
235 X. Cn 18,5.
236 X. Bộ Giáo Luật, điều 220.
237 X. Hc 21,28.
238 Thánh I-nha-xi-ô Lôyôla, Exercitia spiritualia, 22: MHSI 100,164.
239 Thánh Augustinô, De mendacio, 4, 5: CSEL 41,419 (PL 40,491).
240 X. Hc 27,17; Cn 25,9-10.
241 Bộ Giáo Luật, điều 983,1.
242 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Inter mirifica, 11: AAS 56 (1964) 148-149.
243 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Inter mirifica, 5: AAS 56 (1964) 147.
244 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Inter mirifica, 8: AAS 56 (1964) 148.
245 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Inter mirifica, 12: AAS 56 (1964) 149.
246 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Inter mirifica, 12: AAS 56 (1964) 149.
247 X. St 1,26.
248 X. Kn 7,17.
249 X. ĐGH Pi-ô XII, Nuntius radiophonicus (25/12/1955): AAS 48 (1956) 26-41; Id., Nuntius radiophonicus sociis sodalitatis iuvenum operariorum christianorum (J.O.C.) (3/9/1950): AAS 42 (1950) 639-642.
250 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 122-127: AAS 56 (1964) 130-132.
251 Bộ Giáo Luật, điều 983,1.
252 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 122: AAS 56 (1964) 130-131.
Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)
“Ngươi không được ham muốn nhà người ta. Ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi nam tớ nữ, con bò, con lừa hay bất cứ vật gì của người ta” (Xh 20,17).
“Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,28).
2514. 377, 400
Thánh Gio-an phân biệt ba loại ham muốn hoặc dục vọng: dục vọng của xác thịt, dục vọng của đôi mắt, và lối sống kiêu kỳ.253 Theo truyền thống dạy giáo lý Công giáo, điều răn thứ chín cấm dục vọng của xác thịt, điều răn thứ mười cấm thèm muốn của cải của tha nhân.
2515. 405
Theo ngữ nguyên, “dục vọng” có thể chỉ mọi hình thức ước muốn của con người. Thần học Ki-tô Giáo dùng từ này với ý nghĩa đặc biệt chỉ ham muốn của giác quan đi ngược với hoạt động của lý trí con người. Thánh Phao-lô so sánh nó với sự nổi loạn của “xác thịt” chống lại “tinh thần.”254 Dục vọng xuất phát từ sự bất tuân của tội đầu tiên.255 Nó làm hỗn loạn các năng lực luân lý con người và, dù tự nó không phải là tội, nhưng nó hướng con người đến chỗ phạm tội.256
2516. 362, 407
Bởi vì con người là một hữu thể phức hợp, tinh thần và thể xác, nên trong con người đã sẵn có một sự căng thẳng nào đó, một cuộc chiến đấu nào đó giữa các khuynh hướng của “tinh thần” và của “xác thịt.” Nhưng thật ra, cuộc chiến đó là di sản của tội lỗi, vừa là hậu quả, vừa là một bằng chứng của tội. Đây là kinh nghiệm hằng ngày về cuộc chiến thiêng liêng:
“Đối với thánh Tông Đồ, vấn đề không phải là khinh thường hay kết án thân xác, vì cùng với linh hồn thiêng liêng, thân xác tạo nên bản tính của con người và nhân cách chủ quan của mỗi người. Trái lại thánh Tông Đồ nói đến những công việc, hay nói đúng hơn, đến những thói quen bền vững tốt hoặc xấu về mặt luân lý – các nhân đức và các thói xấu -, là kết quả của sự vâng phục (trong trường hợp thứ nhất) hoặc của sự chống đối (trong trường hợp thứ hai) đối với hành động cứu độ của Chúa Thánh Thần. Vì vậy, ngài viết: ‘Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước’ (Gl 5,25).”257
I. Thanh tẩy trái tim (2517-2519)
2517. 368, 1809
Trái tim là nơi của nhân cách luân lý: “Tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm” (Mt 15,19). Cuộc chiến đấu chống lại dục vọng xác thịt phải cần đến việc thanh tẩy trái tim và thực thi đức tiết độ:
“Hãy sống đơn sơ, trong trắng, thì bạn sẽ nên như trẻ thơ, không biết đến điều ác đang hủy hoại đời sống con người.”258
2518. 94, 158
Mối phúc thứ sáu công bố: “Phúc thay ai có trái tim trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Những người có “trái tim trong sạch” là những người biết làm cho trí tuệ và ý chí của mình phù hợp với những đòi hỏi của sự thánh thiện của Thiên Chúa, chủ yếu trong ba lãnh vực: trong đức mến,259 trong sự khiết tịnh hoặc sự ngay thẳng về tính dục,260 trong sự yêu mến chân lý và đức tin chính thống.261 Có mối dây liên kết giữa sự trong sạch của trái tim, của thân thể và của đức tin:
Các tín hữu phải tin các điều trong Tín biểu, “để nhờ tin, họ vâng phục Thiên Chúa, nhờ vâng phục, họ sống ngay thẳng, nhờ sống ngay thẳng, họ thanh luyện trái tim, và nhờ thanh luyện trái tim, họ có thể hiểu điều họ tin.”262
2519. 2548, 2819, 2501
Những người có “trái tim trong sạch” được hứa là sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa mặt giáp mặt và trở nên giống như Ngài.263 Sự trong sạch của trái tim là điều kiện tiên quyết để được thấy Thiên Chúa. Ngay từ bây giờ, trái tim trong sạch giúp chúng ta biết nhìn mọi sự theo cái nhìn của Thiên Chúa, biết đón nhận tha nhân như “người lân cận”; trái tim trong sạch khiến chúng ta biết nhận ra thân thể con người, của mình và của người lân cận, như đền thờ của Chúa Thánh Thần, như sự biểu lộ vẻ đẹp thần linh.
II. Chiến đấu để sống trong sạch (2520-2527)
2520. 1264, 2337, 1752, 1762, 2846
Bí tích Rửa Tội đem đến cho người lãnh nhận ơn thanh tẩy khỏi mọi tội lỗi. Nhưng người đã chịu Phép Rửa còn phải tiếp tục chiến đấu chống lại dục vọng xác thịt và những ham muốn vô trật tự. Với ân sủng của Thiên Chúa, họ sẽ đạt được điều đó:
– nhờ nhân đức và ơn khiết tịnh, bởi vì đức khiết tịnh cho phép yêu thương bằng trái tim ngay thẳng và không phân chia;
– nhờ ý hướng trong sạch, cốt tại việc nhắm đến mục đích thật của con người: với cái nhìn đơn sơ, người đã chịu Phép Rửa cố gắng tìm kiếm và chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong mọi sự.264
– nhờ cái nhìn trong sạch, bên ngoài và trong lòng; nhờ kiểm soát được các giác quan và trí tưởng tượng; nhờ khước từ mọi vui thú trong những tư tưởng không trong sạch, lôi kéo ta lìa xa con đường các giới răn của Thiên Chúa: “Thấy điều xấu, kẻ ngu si động lòng ham muốn” (Kn 15,5);
– nhờ cầu nguyện:
“Con cứ tưởng tiết dục được là do tự sức của riêng mình (…) nhưng thực ra con đâu có biết. Con quá khờ dại nên không biết rằng, nếu Chúa không ban ơn, thì không ai có thể sống tiết dục được. Con chắc chắn Chúa sẽ ban ơn, nếu con tha thiết kêu cầu và vững tin phó thác nơi Chúa.”265
2521. Sự trong sạch đòi phải có sự nết na. Đây là một phần không thể thiếu của đức tiết độ. Sự nết na giữ gìn sự thân mật của con người. Nó từ chối phô bày những gì phải giữ kín. Nó hướng về đức khiết tịnh và cũng chứng tỏ sự dè dặt của đức khiết tịnh. Sự nết na hướng dẫn cái nhìn và cử chỉ cho phù hợp với phẩm giá của con người và phẩm giá của sự kết hợp của họ.
2522. 2492
Sự nết na bảo vệ mầu nhiệm của con người và mầu nhiệm của tình yêu của họ. Nó mời gọi nhẫn nại và điều độ trong quan hệ yêu đương; nó đòi hỏi tuân giữ các điều kiện của sự dâng hiến và của nghĩa vụ vĩnh viễn giữa người nam và người nữ. Sự nết na chính là sự đoan trang. Nó gợi hứng cho việc lựa chọn y phục. Nó giữ thinh lặng hay dè dặt, khi có nguy cơ tò mò thiếu lành mạnh. Sự nết na chính là sự thận trọng.
2523. 2354
Có sự nết na của tình cảm cũng như của thân xác. Chẳng hạn, nết na chống lại việc phơi bày thân xác con người để thỏa mãn thị dục trong quảng cáo, hoặc chống lại việc các phương tiện truyền thông đi quá xa trong việc khai thác những điều thầm kín thân mật. Sự nết na gợi hứng cho một cách sống, giúp chống lại những quyến rũ của thời trang và áp lực của các trào lưu tư tưởng thời thượng.
2524. Cách thức giữ sự nết na khác nhau theo từng nền văn hóa. Tuy nhiên, bất cứ ở đâu, nó vẫn là một trực cảm về phẩm giá thiêng liêng đặc thù của con người. Sự nết na phát sinh do sự ý thức rằng mình là một chủ thể. Dạy cho trẻ em và thiếu niên nam nữ biết giữ nết na là khơi dậy sự tôn trọng nhân vị.
2525. 2344
Đức trong sạch Ki-tô Giáo đòi hỏi sự thanh tẩy bầu khí xã hội. Điều này đòi hỏi các phương tiện truyền thông xã hội phải quan tâm đến sự tôn trọng và sự thận trọng trong việc thông tin. Sự trong sạch của trái tim giải thoát khỏi nạn khiêu dâm đang lan tràn và đẩy xa những màn trình diễn nhằm khuyến khích sự tò mò không trong sạch và những hình ảnh không đứng đắn.
2526. 1740
Chủ trương sống phóng túng phát xuất từ quan niệm sai lạc về sự tự do của con người. Muốn có tự do đích thực, điều tiên quyết là con người phải được giáo dục về luật luân lý. Phải đòi hỏi những người có trách nhiệm giáo dục dạy cho người trẻ biết tôn trọng sự thật, các phẩm chất của trái tim và phẩm giá luân lý và thiêng liêng của con người.
2527. 1204
“Tin Mừng của Đức Ki-tô không ngừng đổi mới đời sống và văn hóa của con người đã sa ngã, chống lại và loại bỏ những sai lầm và điều xấu, xuất phát do sức quyến rũ thường xuyên của tội lỗi. Tin Mừng không ngừng thanh tẩy và nâng cao các phong hóa của các dân tộc. Nhờ những nguồn phong phú từ trên cao, Tin Mừng làm trổ sinh hoa trái, như từ bên trong, các phẩm chất tinh thần và các truyền thống của mỗi dân tộc và mỗi thời đại. Tin Mừng củng cố, kiện toàn và phục hồi những điều đó trong Đức Ki-tô.”266
Tóm lược (2528-2533)
2528. “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,28).
2529. Điều răn thứ chín khơi dậy sự tỉnh thức chống lại sự ham muốn hoặc dục vọng xác thịt.
2530. Cuộc chiến đấu chống lại dục vọng xác thịt phải cần đến việc thanh tẩy trái tim và thực thi đức tiết độ.
2531. Sự trong sạch của trái tim sẽ làm cho chúng ta được nhìn thấy Thiên Chúa: ngay từ bây giờ, trái tim trong sạch giúp chúng ta biết nhìn mọi sự theo cái nhìn của Thiên Chúa.
2532. Sự thanh tẩy trái tim đòi hỏi việc cầu nguyện, thực thi đức khiết tịnh, sự trong sạch của ý hướng và của cái nhìn.
2533. Sự trong sạch của trái tim đòi hỏi sự nết na, nghĩa là nhẫn nại, đoan trang và thận trọng. Sự nết na gìn giữ sự thân mật của con người.
Chú thích
253 X. 1 Ga 2,16.
254 X. Gl 5,16.17.24; Ep 2,3.
255 X. St 3,11.
256 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 5a, Decretum de peccato originali, canon 5: DS 1515.
257 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Dominum et vivificantem, 55: AAS 78 (1986) 877-878.
258 Hermas, Pastor, 27, 1 (mandatum 2,1): SC 53,146 (Funk 1,70).
259 X. 1 Tx 4,3-9; 2 Tm 2,22.
260 X. 1 Tx 4,7; Cl 3,5; Ep 4,19.
261 X. Tt 1,15; 1 Tm 1,3-4; 2 Tm 2,23-26.
262 Thánh Augustinô, De fide et Symbolo, 10, 25: CSEL 25,32 (PL 40,196).
263 X. 1 Cr 13,12; 1 Ga 3,2.
264 X. Rm 12,2; Cl 1,10.
265 Thánh Augustinô, Confessiones, 6, 11, 20: CCL 27,87 (PL 32,729-730).
266 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 58: AAS 58 (1966) 1079.
Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)
“Ngươi không được ham muốn… bất cứ vật gì của người ta” (Xh 20,17). “Ngươi không được thèm muốn nhà của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò, con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta” (Đnl 5,21). “Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6,21).
2534. 2112, 2069
Điều răn thứ mười giải thích và bổ túc điều răn thứ chín, là điều răn về dục vọng xác thịt. Điều răn thứ mười cấm sự ham muốn của cải của người khác, là cội rễ của tội trộm cắp, cướp đoạt và gian lận, mà điều răn thứ bảy đã cấm. “Dục vọng của đôi mắt” (1 Ga 2,16) đưa đến bạo lực và sự bất công, mà điều răn thứ năm đã cấm.267 Sự ham muốn, cũng như sự gian dâm, bắt nguồn từ việc thờ ngẫu tượng mà ba điều răn đầu của Lề Luật đã cấm.268 Điều răn thứ mười nhắm đến ý hướng của trái tim; và cùng với điều răn thứ chín, điều răn thứ mười tóm kết tất cả các điều răn của Lề Luật.
Bài này đã được xem 5631 lần!