Chúa Giê-su nhận lời cầu nguyện (2616)
2616. 548, 2667
Lúc Người còn đang thi hành tác vụ, lời cầu nguyện với Chúa Giê-su đã được chính Người nhận lời, qua các dấu lạ, những dấu lạ này tiền dự vào sức mạnh của sự chết và sự sống lại của Người. Chúa Giê-su nhận lời cầu nguyện của đức tin, được diễn tả bằng lời nói (của người bệnh phong,79 của ông Giairô,80 của người phụ nữ Ca-na-an,81 của người trộm lành82), hay trong thinh lặng (của những kẻ khiêng người bất toại,83 của người đàn bà bị bệnh loạn huyết đụng chạm vào áo Người,84 nước mắt và dầu thơm của người phụ nữ tội lỗi85). Lời nài xin tha thiết của những người mù: “Lạy Con Vua Đa-vít, xin thương xót chúng tôi” (Mt 9,27) hay “Lạy Ông Giê-su, Con Vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi” (Mc 10,48) được sử dụng lại trong truyền thống Khẩn nguyện Chúa Giê-su (Oratio ad Iesum): “Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, là Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Chúa Giê-su luôn đáp lại lời cầu xin Người với đức tin, bằng cách chữa lành bệnh tật hoặc thứ tha tội lỗi: “Cứ về bình an, lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”
Thánh Augustinô đã khéo léo tóm tắt ba chiều kích của lời cầu nguyện của Chúa Giê-su: “Người cầu nguyện cho chúng ta, vì Người là vị Tư Tế của chúng ta; Người cầu nguyện trong chúng ta vì Người là Đầu của chúng ta; Người được chúng ta cầu nguyện, vì Người là Thiên Chúa của chúng ta. Vậy chúng ta phải nhận biết tiếng nói của chúng ta trong Người, lẫn tiếng nói của Người trong chúng ta.”86
Lời cầu nguyện của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a (2617-2619)
2617. 148, 494, 490
Lời cầu nguyện của Đức Ma-ri-a được mặc khải cho chúng ta vào buổi bình minh của lúc thời gian viên mãn. Trước cuộc Nhập Thể của Con Thiên Chúa và trước việc đổ tràn Thánh Thần xuống, lời cầu nguyện của Mẹ cộng tác cách độc đáo vào kế hoạch ưu ái của Chúa Cha: vào lúc Truyền tin để Đức Ki-tô được thụ thai,87 vào lúc Hiện Xuống để Hội Thánh, Thân thể của Đức Ki-tô, được hình thành.88 Hồng ân của Thiên Chúa được đón nhận nơi lòng tin của người nữ tì khiêm tốn của Ngài, sự đón nhận mà Ngài đã đợi chờ từ lúc khởi sự thời gian. Người nữ ấy, đã được Đấng Toàn Năng làm cho “đầy ân sủng”, đã đáp lại bằng việc tiến dâng trọn bản thân mình: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin thực hiện cho tôi như lời của Ngài.” Lời thưa Fiat (Xin vâng) chính là lời cầu nguyện của Ki-tô Giáo: tất cả là của Chúa bởi vì chính Chúa là tất cả của chúng ta.
2618. 2674, 726
Tin Mừng mặc khải cho chúng ta Đức Ma-ri-a cầu nguyện và chuyển cầu trong lòng tin như thế nào: tại Ca-na,89 Thân mẫu Chúa Giê-su cầu xin Con mình lo đến nhu cầu của bữa tiệc cưới. Bữa tiệc này là dấu chỉ của một Bữa tiệc khác, là tiệc cưới Chiên Con, Đấng ban tặng Mình Máu Người theo lời nài xin của Hội Thánh, Hiền Thê của Người. Vào giờ của Giao ước mới, gần bên thánh giá,90 Đức Ma-ri-a đã được nhận lời, với tư cách là Người Nữ, tức là bà E-và mới, đích thực là “Mẹ của chúng sinh.”
2619. 724
Do đó, bài ca của Đức Ma-ri-a91 (tiếng La-tinh là Magnificat và tiếng Byzantin là Megalinárion) là bài ca vừa của Mẹ Thiên Chúa vừa của Hội Thánh, bài ca vừa của Thiếu nữ Xi-on, vừa của dân mới của Thiên Chúa, bài ca tạ ơn vì sự viên mãn của các ân sủng được ban tràn đầy trong Nhiệm cục cứu độ, bài ca của “những người nghèo” thấy niềm hy vọng của mình được thực hiện nhờ việc hoàn thành các lời hứa dành cho cha ông chúng ta, “cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.”
Tóm lược (2620-2622)
2620. Trong Tân Ước, khuôn mẫu tuyệt hảo của cầu nguyện là lời cầu nguyện đầy tình con thảo của Chúa Giê-su. Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su – thường được thực hiện trong nơi vắng vẻ và kín đáo – bao hàm sự gắn bó đầy tình yêu với thánh ý Chúa Cha cho đến tận thập giá, và sự tin tưởng tuyệt đối là được nhận lời.
2621. Chúa Giê-su dạy các môn đệ cầu nguyện với tâm hồn trong sạch, với đức tin sống động, luôn kiên nhẫn và sự bạo dạn của người con. Người đòi buộc họ phải tỉnh thức và mời gọi họ dâng lên Thiên Chúa những lời cầu xin nhân danh Người. Chính Chúa Giê-su Ki-tô nhận những lời cầu nguyện dâng lên Người.
2622. Kinh nguyện của Đức Ma-ri-a, trong lời “Xin vâng” và trong bài ca “Magnificat” của Mẹ, có nét đặc thù là sự quảng đại hiến dâng trọn bản thân Mẹ trong đức tin.
Chú thích
41 X. Lc 1,49; 2,19.51.
42 X. Lc 3,21.
43 X. Lc 9,28.
44 X. Lc 22,41-44.
45 X. Lc 6,12.
46 X. Lc 9,18-20.
47 X. Lc 22,32.
48 X. Mc 1,35; 6,46; Lc 5,16.
49 X. Dt 2,12.
50 X. Dt 2,15; 4,15.
51 X. Mt 11,25-27; Lc 10,21-22.
52 X. Ep 1,9.
53 X. Ga 11,41-42.
54 X. Mc 6,21.33.
55 X. Ga 17.
56 X. Tv 22,2.
57 X. Mc 15,37; Ga 19,30.
58 X. Cv 13,33.
59 X. Mt 5,23-24.
60 X. Mt 5,44-45.
61 X. Mt 6,7.
62 X. Mt 6,14-15.
63 X. Mt 6,21.25.33.
64 X. Mt 7,7-11.13-14.
65 X. Mt 21,21.
66 X. Mt 8,26.
67 X. Mt 8,10.
68 X. Mt 15,28.
69 X. Mt 7,21.
70 X. Mt 9,38; Lc 10,2; Ga 4,34.
71 X. Mc 13; Lc 21,34-36.
72 X. Lc 22,40.46.
73 X. Lc 11,5-13.
74 X. Lc 18,1-8.
75 X. Lc 18,9-14.
76 X. Ga 14,13.
77 X. Ga 14,13-14.
78 X. Ga 14,23-26 ; 15,7.16 ; 16,13-15.23-27.
79 X. Mc 1,40-41.
80 X. Mc 5,36.
81 X. Mc 7,29.
82 X. Lc 23,39-43.
83 X. Mc 2,5.
84 X. Mc 5,28.
85 X. Lc 7,37-38.
86 Thánh Augustinô, Enarratio in Psalmum 85, 1: CCL 39,1176 (PL 36,1081); x. Văn kiện trình bày và quy định Các Giờ Kinh phụng vụ, 7: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v. 1 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 24.
87 X. Lc 1,38.
88 X. Cv 1,14.
89 X. Ga 2,1-12.
90 X. Ga 19,25-27.
91 X. Lc 1,46-55.
Mục 3: Trong thời của Hội Thánh (2623-2649)
2623. 731
Ngày lễ Ngũ Tuần, Thần Khí của Lời hứa được đổ tràn xuống các môn đệ “đang tề tựu ở một nơi” (Cv 2,1), “tất cả… đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện” để chờ đón Ngài (Cv 1,14). Thần Khí, Đấng dạy dỗ Hội Thánh và nhắc cho Hội Thánh nhớ mọi điều Chúa Giê-su đã nói,92 cũng sẽ huấn luyện Hội Thánh về đời sống cầu nguyện.
2624. 1342
Trong cộng đoàn tiên khởi tại Giê-ru-sa-lem, các tín hữu “chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Chuỗi thứ tự ấy là nét đặc thù của việc cầu nguyện của Hội Thánh: việc cầu nguyện đặt nền tảng trên đức tin tông truyền, được chứng thực bằng tình bác ái, được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể.
2625. 1092, 1200
Những lời cầu nguyện này trước hết là những lời các tín hữu nghe và đọc trong Sách Thánh, nhưng họ làm cho những lời ấy trở thành hiện tại, đặc biệt là những lời Thánh vịnh, do chúng được nên trọn trong Đức Ki-tô.93 Chúa Thánh Thần, Đấng nhắc cho Hội Thánh đang cầu nguyện nhớ đến Đức Ki-tô như vậy, cũng dẫn đưa Hội Thánh đến chân lý trọn vẹn và khơi dậy những mẫu kinh mới để diễn tả mầu nhiệm khôn dò của Đức Ki-tô, mầu nhiệm ấy đang hoạt động trong đời sống, trong các bí tích và trong sứ vụ của Hội Thánh Người. Những mẫu kinh này sẽ được khai triển trong các truyền thống phụng vụ và linh đạo quan trọng. Các hình thức cầu nguyện, như được mặc khải trong các tác phẩm của các Tông Đồ thuộc Tân Ước, sẽ mãi mãi là mẫu mực cho kinh nguyện Ki-tô Giáo.
I. Chúc tụng và thờ lạy (2626-2628)
2626. 1078
Chúc tụng diễn tả động thái sâu xa nhất của việc cầu nguyện Ki-tô Giáo. Đó là sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người; trong đó Thiên Chúa ban ơn và con người tiếp nhận, hai bên mời gọi nhau và nối kết với nhau. Lời kinh chúc tụng là lời đáp của con người đối với những hồng ân của Thiên Chúa: vì Thiên Chúa chúc lành, tâm hồn con người có thể chúc tụng để đáp lại Đấng là nguồn mạch mọi phúc lành.
2627. 1083
Có hai dạng căn bản diễn tả động thái này: có khi là dạng đi lên, tức là lời chúc tụng được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần nhờ Đức Ki-tô dâng lên Chúa Cha (chúng ta chúc tụng Ngài vì Ngài đã chúc lành cho chúng ta94); có khi là dạng đi xuống, tức là khẩn cầu ân sủng của Chúa Thánh Thần, Đấng nhờ Đức Ki-tô, từ Chúa Cha mà xuống, (chính Ngài chúc lành cho chúng ta).95
2628. 2096-2097, 2559
Thờ lạy là thái độ đầu tiên của con người nhìn nhận mình là thụ tạo trước Đấng Tạo hóa của mình. Thờ lạy là tán dương sự cao cả của Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta96 và sự toàn năng của Đấng cứu độ, Đấng giải thoát chúng ta khỏi sự dữ. Thờ lạy là phủ phục tinh thần trước “Đức Vua vinh quang”,97 và là lặng thinh kính cẩn trước Thiên Chúa, Đấng “luôn luôn cao cả hơn.”98 Việc thờ lạy Thiên Chúa muôn trùng chí thánh và đáng mến vô cùng làm cho lòng ta khiêm tốn và đem lại sự bảo đảm cho những lời cầu khẩn của chúng ta.
II. Lời kinh cầu xin (2629-2633)
2629. 396
Từ vựng diễn tả việc khẩn cầu trong Tân Ước có sắc thái phong phú đa dạng: xin, nài xin, nài nỉ, kêu cầu, kêu xin, kêu cứu và thậm chí “chiến đấu trong cầu nguyện.”99 Nhưng hình thức thông thường nhất, vì là tự phát nhất, là cầu xin. Qua lời kinh cầu xin, chúng ta bộc lộ ý thức về mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa: là những thụ tạo, chúng ta không phải tự mình mà có, không làm chủ được những nghịch cảnh, cũng chẳng phải là cùng đích của đời mình. Hơn nữa, vì là Ki-tô hữu, chúng ta biết mình là những tội nhân đã quay lưng lại với Cha chúng ta. Cầu xin, một cách nào đó, đã là trở về với Ngài.
2630. 2090
Tân Ước hầu như không có những lời cầu nguyện than van thường thấy trong Cựu Ước. Từ nay trở đi, trong Đức Ki-tô phục sinh, lời cầu nguyện của Hội Thánh mang niềm hy vọng, cho dù hiện nay chúng ta vẫn đang trông chờ và mỗi ngày vẫn còn cần hối cải. Lời kinh cầu xin của Ki-tô Giáo còn xuất phát từ một chiều sâu khác, từ chiều sâu được thánh Phao-lô gọi là lời rên siết: tức là lời rên siết của thụ tạo “quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,22); cũng là tiếng rên siết của chúng ta “còn trông đợi Thiên Chúa… cứu chuộc thân xác chúng ta nữa. Quả thế, chúng ta đã được cứu độ, nhưng vẫn còn phải trông mong” (Rm 8,23-24); sau cùng là những “tiếng rên siết khôn tả” của chính Chúa Thánh Thần, Đấng “giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải” (Rm 8,26).
2631. 2838
Cầu xin ơn tha thứ là động thái đầu tiên của lời kinh cầu xin, (như lời người thu thuế: “Xin thương xót con là kẻ tội lỗi”, Lc 18,13). Đó là bước đi đầu tiên để có thể cầu nguyện đúng đắn và tinh tuyền. Lòng khiêm tốn đầy tin tưởng phó thác đặt chúng ta vào trong ánh sáng của sự hiệp thông với Chúa Cha và Con Ngài là Chúa Giê-su Ki-tô, và hiệp thông với nhau:100 khi đó “bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Ngài ban cho” (1 Ga 3,22). Chúng ta phải cầu xin ơn tha thứ trước khi cử hành Thánh lễ, cũng như trước khi cầu nguyện riêng.
2632. 2816, 1942, 2854
Theo giáo huấn của Chúa Giê-su,101 trọng tâm lời kinh cầu xin của Ki-tô Giáo là sự khao khát và tìm kiếm Nước Chúa đang đến. Vì thế, cần phải có một trật tự trong lời cầu xin: trước tiên là Nước Chúa, rồi đến những gì cần thiết cho chúng ta để đón nhận và cộng tác cho Nước Chúa trị đến. Việc cộng tác như vậy vào sứ vụ của Đức Ki-tô và của Chúa Thánh Thần, nay là sứ vụ của Hội Thánh, là đối tượng cầu xin của cộng đoàn thời các Tông Đồ.102 Kinh nguyện của thánh Phao-lô, vị Tông Đồ ngoại hạng, mặc khải cho ta thấy sự quan tâm thánh thiện đến tất cả các giáo đoàn, phải gợi hứng cho kinh nguyện Ki-tô Giáo như thế nào.103 Bằng cầu nguyện, mọi người đã chịu Phép Rửa đều hoạt động cho Nước Chúa trị đến.
2633. 2830
Khi tham dự vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa như thế, chúng ta cần hiểu rằng mọi nhu cầu đều có thể trở thành đối tượng của lời kinh cầu xin. Đức Ki-tô, Đấng đã đón nhận tất cả để cứu chuộc tất cả, được tôn vinh nhờ những lời cầu xin mà chúng ta nhân danh Người dâng lên Chúa Cha.104 Được bảo đảm nhờ điều đó nên thánh Gia-cô-bê105 và thánh Phao-lô khuyến khích chúng ta cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh.106
III. Lời kinh chuyển cầu (2634-2636)
2634. 432
Chuyển cầu là lời kinh cầu xin làm cho chúng ta đến gần với kinh nguyện của Chúa Giê-su. Người là Đấng chuyển cầu duy nhất nơi Chúa Cha cho tất cả mọi người, đặc biệt là cho kẻ tội lỗi.107 “Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7,25). Chính Chúa Thánh Thần “cầu thay nguyện giúp…, bởi vì Ngài cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).
2635. 2571, 2577
Chuyển cầu, nghĩa là cầu xin cho những người khác, ngay từ tổ phụ Áp-ra-ham, là đặc điểm của một tâm hồn hòa nhịp với lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Trong thời của Hội Thánh, lời chuyển cầu của Ki-tô hữu tham dự vào lời chuyển cầu của Đức Ki-tô: đây là cách diễn tả mầu nhiệm các Thánh thông công. Trong lời chuyển cầu, người cầu nguyện “đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,4), thậm chí họ cầu nguyện cả cho những người làm hại họ.108
2636. 1900, 1037
Các cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi đã nhiệt thành sống hình thức chia sẻ này.109 Thánh Tông Đồ Phao-lô đã cho các cộng đoàn đó tham gia vào thừa tác vụ Tin Mừng của ngài bằng cách này110 nhưng ngài cũng chuyển cầu cho họ nữa.111 Lời chuyển cầu của các Ki-tô hữu không có ranh giới: “cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền” (1 Tm 2,1), cho những người bách hại,112 cho ơn cứu độ của những người từ khước Tin Mừng.113
IV. Lời kinh tạ ơn (2637-2638)
2637. 224, 1328, 2603
Tạ ơn là nét đặc trưng của kinh nguyện của Hội Thánh; Hội Thánh, khi cử hành Thánh Lễ, biểu lộ và trở thành phù hợp hơn với bản chất của mình. Thật vậy, trong công trình cứu độ, Đức Ki-tô giải thoát thụ tạo khỏi tội lỗi và sự chết, để thánh hiến chúng một lần nữa và quy hướng chúng về Chúa Cha để tôn vinh Ngài. Lời kinh tạ ơn của các chi thể trong Thân Thể được tham dự vào lời tạ ơn của Đức Ki-tô là Đầu.
2638. Cũng như trong lời kinh cầu xin, mọi biến cố và nhu cầu đều có thể trở thành lễ phẩm tạ ơn. Các thư của thánh Phao-lô thường khởi đầu và kết thúc bằng một lời tạ ơn, và Chúa Giê-su luôn hiện diện trong việc tạ ơn đó. “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su” (1 Tx 5,18). “Anh em hãy siêng năng cầu nguyện; hãy tỉnh thức mà cầu nguyện và tạ ơn” (Cl 4,2).
V. Lời kinh ca ngợi (2639-2643)
2639. 213
Ca ngợi là hình thức cầu nguyện nhìn nhận Thiên Chúa là Thiên Chúa một cách trực tiếp nhất. Lời kinh ca ngợi tán dương Thiên Chúa vì chính Ngài, tôn vinh Ngài không phải vì các công trình của Ngài, nhưng bởi vì NGÀI HIỆN HỮU. Khi ca ngợi Thiên Chúa, chúng ta được thông phần hạnh phúc của những tâm hồn trong sạch, những kẻ yêu mến Ngài trong đức tin trước khi được nhìn thấy Ngài trong vinh quang. Nhờ lời kinh ca ngợi, Thần Khí kết hợp với thần trí chúng ta để chứng nhận chúng ta là con cái Thiên Chúa.114 Ngài làm chứng cho Người Con Một, trong Người, chúng ta được nhận làm nghĩa tử và nhờ Người, chúng ta tôn vinh Chúa Cha. Lời kinh ca ngợi gồm tóm các hình thức cầu nguyện khác và dâng tất cả lên Đấng là nguồn mạch và cùng đích của chúng: đó là “chỉ có một Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo thành vạn vật và là cùng đích của chúng ta” (1 Cr 8,6).
2640. Thánh Lu-ca, trong sách Tin Mừng của mình, thường nhắc đến thái độ thán phục và ca ngợi trước những phép lạ của Đức Ki-tô. Trong sách Công vụ Tông Đồ, ngài cũng nhấn mạnh các thái độ này trước những hoạt động của Chúa Thánh Thần: lời ca ngợi của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem,115 của người bất toại được các ông Phê-rô và Gio-an chữa lành,116 của dân chúng tôn vinh Thiên Chúa vì việc chữa lành đó,117 của dân ngoại ở Pixiđia “vui mừng tôn vinh Lời Chúa” (Cv 13,48).
2641. 2587
“Hãy cùng nhau đối đáp những bài Thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” (Ep 5,19).118 Như các tác giả được linh hứng của Tân Ước, các cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi đọc lại sách Thánh vịnh một cách mới mẻ: họ dùng các Thánh vịnh để hát mừng mầu nhiệm Đức Ki-tô. Dưới tác động mới mẻ của Thần Khí, họ cũng sáng tác những thánh thi và thánh ca, khởi đi từ biến cố độc đáo Thiên Chúa đã thực hiện nơi Con của Ngài: cuộc Nhập thể, cái Chết toàn thắng sự chết, sự Phục sinh và việc Lên trời ngự bên hữu Ngài.119 Chính từ “những kỳ công này” của toàn thể nhiệm cục cứu độ mà các tín hữu dâng lên lời vinh tụng ca (doxologia), ca ngợi Thiên Chúa.120
2642. 1137
Sách Khải Huyền, lời mặc khải “về những điều sắp phải xảy đến”, có những bài thánh ca của phụng vụ thiên quốc,121 nhưng cũng có lời chuyển cầu của “các chứng nhân” (các vị tử đạo).122 Các Tiên tri và các Thánh, tất cả những người đã bị sát hại dưới trần gian để làm chứng cho Chúa Giê-su,123 đoàn người đông đảo “đã trải qua cơn thử thách lớn lao”, và đi trước chúng ta vào Nước Trời, đang hát lên lời ca ngợi vinh quang của “Đấng đang ngự trên ngai và Con Chiên.”124 Hiệp thông với các ngài, Hội Thánh trần gian cũng hát lên những bài thánh ca, trong đức tin và giữa cơn thử thách. Khi cầu xin và chuyển cầu, đức tin hy vọng, dù không còn gì để hy vọng, và tạ ơn “Chúa Cha là nguồn ánh sáng”, Đấng ban xuống “mọi hồng ân tốt lành.”125 Như thế, đức tin là một lời ca ngợi tinh tuyền.
Bài này đã được xem 5717 lần!