2643. 1330
Thánh lễ chứa đựng và diễn tả mọi hình thức cầu nguyện: đó chính là “lễ phẩm tinh tuyền” của toàn Thân thể Chúa Ki-tô để tôn vinh Danh Người.126 Truyền thống Đông và Tây phương đều gọi Thánh lễ là “hy lễ ca ngợi” (“sacrificium laudis”).
Tóm lược (2644-2649)
2644. Chúa Thánh Thần, Đấng dạy dỗ và nhắc cho Hội Thánh nhớ những gì Chúa Giê-su đã nói, cũng dạy Hội Thánh về đời sống cầu nguyện, bằng cách gợi lên những lối diễn tả mới trong những hình thức vẫn có: chúc tụng, cầu xin, chuyển cầu, tạ ơn và ca ngợi.
2645. Vì Thiên Chúa chúc lành cho con người, nên tâm hồn con người có thể chúc tụng để đền đáp Đấng là nguồn mạch mọi phúc lành.
2646. Lời cầu xin nhằm vào các việc xin ơn tha thứ, tìm kiếm Nước Chúa, cũng như cầu xin những ơn cần thiết.
2647. Chuyển cầu là một lời cầu xin cho những người khác. Lời chuyển cầu không có biên giới và bao trùm cả kẻ thù.
2648. Mọi vui buồn, mọi biến cố và nhu cầu đều có thể là chất liệu để tạ ơn; lời tạ ơn của chúng ta được tham dự vào lời tạ ơn của Đức Ki-tô và lấp đầy cuộc sống của chúng ta: “Hãy tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh” (1 Tx 5,18).
2649. Lời kinh ca ngợi, hoàn toàn vô vị lợi, hướng về Thiên Chúa; lời kinh này hát mừng Thiên Chúa vì chính Ngài, tôn vinh Ngài không phải vì các công trình Ngài thực hiện, nhưng bởi vì NGÀI HIỆN HỮU.
Chú thích
92 X. Ga 14,26.
93 X. Lc 24,27.44.
94 X. Ep 1,3-14; 2 Cr 1,3-7; 1 Pr 1,3-9.
95 X. 2 Cr 13,13; Rm 15,5-6.13; Ep 6,23-24.
96 X. Tv 95,1-6.
97 X. Tv 24,9-10.
98 Thánh Augustinô, Enarratio in Psalmum 62, 16: CCL 39,804 (PL 36,758).
99 X. Rm 15,30; Cl 4,12.
100 X. 1 Ga 1,7-2,2.
101 X. Mt 6,10.33; Lc 11,2.13.
102 X. Cv 6,6; 13,3.
103 X. Rm 10,1; Ep 1,16-23; Pl 1,9-11; Cl 1,3-6; 4,3-4.12.
104 X. Ga 14,13.
105 X. Gc 1,5-8.
106 X. Ep 5,20; Pl 4,6-7; Cl 3,16-17; 1 Tx 5,17-18.
107 X. Rm 8,34; 1 Ga 2,1; 1 Tm 2,5-8.
108 Thánh Tê-pha-nô, theo gương Chúa Giê-su, đã cầu nguyện cho các lý hình của mình: x. Cv 7,60; Lc 23,28.34.
109 X. Cv 12,5; 20,36; 21,5; 2 Cr 9,14.
110 X. Ep 6,18-20; Cl 4,3-4; 1 Tx 5,25.
111 X. 2 Tx 1,11; Cl 1,3; Pl 1,3-4.
112 X. Rm 12,14.
113 X. Rm 10,1.
114 X. Rm 8,16.
115 X. Cv 2,47.
116 X. Cv 3,9.
117 X. Cv 4,21.
118 X. Cl 3,16.
119 X. Pl 2,6-11; Cl 1,15-20 ; Ep 5,14; 1Tm 3,16; 6,15-16; 2 Tm 2,11-13.
120 X. Ep 1,3-14; 3,20-21; Rm 16,25-27; Gđ 24-25.
121 X. Kh 4,8-11; 5,9-14; 7,10-12.
122 X. Kh 6,10.
123 X. Kh 18,24.
124 X. Kh 19,1-8.
125 X. Gc 1,17.
126 X. Ml 1,11.
CHƯƠNG II: TRUYỀN THỐNG CẦU NGUYỆN (2650-2696)
2650. 75
Việc cầu nguyện không chỉ là sự bộc phát do một thúc đẩy nội tâm: để cầu nguyện, phải muốn cầu nguyện. Nếu chỉ biết Thánh Kinh mặc khải những gì về cầu nguyện thì chưa đủ: còn phải học cầu nguyện nữa. Thật vậy, Chúa Thánh Thần, nhờ sự lưu truyền sống động (Thánh Truyền) dạy con cái Thiên Chúa biết cầu nguyện trong Hội Thánh đang tin và đang cầu nguyện.1
2651. 94
Truyền thống cầu nguyện Ki-tô Giáo là một trong các hình thái triển nở của Truyền thống đức tin, đặc biệt nhờ việc chiêm niệm và học hỏi của các tín hữu, những người luôn ghi nhớ trong lòng những biến cố và lời dạy về Nhiệm cục cứu độ, và nhờ sự thấu triệt sâu xa những thực tại thiêng liêng mà họ cảm nghiệm.2
Đề mục
Mục 1: Những nguồn mạch của kinh nguyện (2652-2662)
Mục 2: Con đường cầu nguyện (2663-2682)
Mục 3: Những người hướng dẫn cầu nguyện (2683-2696)
Chú thích
1 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 8: AAS 58 (1966) 821.
2 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 8: AAS 58 (1966) 821.
Mục 1: Những nguồn mạch của kinh nguyện (2652-2662)
2652. Chúa Thánh Thần là “nước trường sinh”, “tuôn ban sự sống muôn đời”3 vào tâm hồn người cầu nguyện. Chính Ngài dạy chúng ta biết đón nhận nước đó tận nguồn mạch: nơi Đức Ki-tô. Trong đời sống Ki-tô hữu, có những mạch dẫn đến nguồn, nơi Đức Ki-tô đang mong đợi chúng ta để cho chúng ta uống thỏa thuê Chúa Thánh Thần:
Lời Chúa (2653-2654)
2653. 133, 1100
Hội Thánh “nhiệt liệt và đặc biệt khuyến khích mọi Ki-tô hữu… học được ‘sự hiểu biết tuyệt vời về Chúa Giê-su Ki-tô’ (Pl 3,8) nhờ năng đọc Sách Thánh… Nhưng họ nên nhớ rằng kinh nguyện phải có kèm theo việc đọc Thánh Kinh, để trở thành cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người, vì ‘chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh’.”4
2654. Các linh phụ đã dùng câu Tin Mừng Mt 7,7 để tóm lược tiến trình tâm hồn được Lời Chúa nuôi dưỡng khi cầu nguyện, như sau: “Anh em cứ tìm nhờ đọc, thì sẽ thấy nhờ suy niệm; cứ gõ cửa nhờ cầu nguyện, thì sẽ mở ra cho anh em nhờ chiêm niệm.”5
Phụng vụ của Hội Thánh (2655)
2655. 1073, 368
Sứ vụ của Đức Ki-tô và của Chúa Thánh Thần, trong phụng vụ bí tích của Hội Thánh, là công bố, hiện tại hóa và truyền thông mầu nhiệm cứu độ, sứ vụ ấy được tiếp nối trong tâm hồn người đang cầu nguyện. Các linh phụ đôi khi so sánh tâm hồn với bàn thờ. Việc cầu nguyện làm cho phụng vụ được nội tâm hóa và trở thành riêng của bản thân, cả trong lúc cử hành lẫn sau khi cử hành. Việc cầu nguyện, dù ở “nơi kín đáo” (Mt 6,6), vẫn luôn là lời cầu nguyện của Hội Thánh và là sự hiệp thông với Ba Ngôi Chí Thánh.6
Các nhân đức đối thần (2656-2658) [1812-1829]
2656. Chúng ta phải qua cửa hẹp của đức tin để đi vào cầu nguyện cũng như đi vào phụng vụ. Qua các dấu chỉ sự hiện diện của Chúa, chúng ta tìm kiếm và khao khát tôn nhan Ngài, chúng ta muốn lắng nghe và tuân giữ lời Ngài.
2657. Chúa Thánh Thần, Đấng dạy chúng ta cử hành phụng vụ đang khi mong đợi ngày trở lại của Đức Ki-tô, giáo dục chúng ta biết cầu nguyện trong đức cậy. Ngược lại, việc cầu nguyện của Hội Thánh và của cá nhân nuôi dưỡng đức cậy trong lòng chúng ta. Đặc biệt các Thánh vịnh, với ngôn từ cụ thể và đa dạng của chúng, dạy chúng ta đặt lòng trông cậy nơi Thiên Chúa: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Ngài nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu” (Tv 40,2). “Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề hy vọng” (Rm 15,13).
2658. 826
“Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Một khi được đào tạo nhờ đời sống phụng vụ, việc cầu nguyện sẽ kín múc được mọi sự trong tình yêu mà Thiên Chúa đã yêu mến chúng ta trong Đức Ki-tô. Tình yêu này giúp chúng ta đáp lại Ngài bằng cách yêu thương như chính Ngài đã yêu thương chúng ta. Tình yêu là nguồn mạch duy nhất của cầu nguyện; ai kín múc nơi nguồn mạch này, người đó đạt tới chóp đỉnh của việc cầu nguyện:
“Lạy Thiên Chúa của con, con yêu mến Chúa, và niềm ao ước duy nhất của con là yêu mến Chúa cho đến hơi thở cuối cùng của đời con. Lạy Thiên Chúa vô cùng khả ái, con yêu mến Chúa. Con thà chết vì yêu mến Chúa, còn hơn là sống mà không yêu mến Chúa. Lạy Chúa, con yêu mến Chúa, và ân sủng duy nhất mà con cầu xin là cho con được yêu mến Chúa muôn đời… Lạy Thiên Chúa của con, nếu miệng lưỡi con không thể lúc nào cũng lặp lại rằng con yêu mến Chúa, con muốn rằng tim con luôn lặp lại lời đó với Chúa theo từng nhịp thở của con.”7
“Ngày hôm nay” (2659-2660)
2659. 1165, 2837, 305
Có những lúc chúng ta học cầu nguyện bằng cách lắng nghe Lời Chúa và tham dự mầu nhiệm Vượt Qua của Người; nhưng mọi lúc, trong các biến cố hằng ngày, Người ban Thần Khí của Người để giúp ta cầu nguyện. Giáo huấn của Chúa Giê-su về việc cầu nguyện với Chúa Cha cũng giống như giáo huấn về Chúa quan phòng:8 thời gian ở trong tay Chúa Cha; chúng ta gặp gỡ Ngài trong hiện tại, không phải hôm qua hay ngày mai, nhưng chính hôm nay: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa: các ngươi chớ cứng lòng!” (Tv 95,8).
2660. 2546, 2632
Cầu nguyện trong các biến cố mỗi ngày và mỗi lúc, là một trong những điều bí ẩn của Nước Trời, được mặc khải cho “những người bé mọn”, những tôi tớ Đức Ki-tô, những người nghèo theo các mối phúc. Thật là chính đáng và tốt lành khi cầu nguyện để công lý và hòa bình của “Nước Chúa trị đến” có ảnh hưởng trên tiến trình lịch sử; nhưng cũng quan trọng là phải dùng cầu nguyện mà nhào nặn khối bột là những hoàn cảnh tầm thường hằng ngày. Mọi hình thức cầu nguyện đều có thể là thứ men mà Chúa đã sánh ví với Nước Chúa.9
Tóm lược (2661-2662)
2661. Nhờ việc lưu truyền sống động là Thánh Truyền, Chúa Thánh Thần dạy con cái Thiên Chúa, trong Hội Thánh, biết cầu nguyện.
2662. Lời Chúa, Phụng vụ của Hội Thánh, các nhân đức Tin Cậy Mến, là những nguồn mạch của việc cầu nguyện.
Chú thích
3 X. Ga 4,14.
4 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 25: AAS 58 (1966) 829; x. Thánh Ambrôsiô, De officiis ministrorum, 1, 88: ed. N. Testard (Paris 1984) 138 (PL 16,50).
5 Guigô II Cartusiensis, Scala claustralium, 2, 2: PL 184,476.
6 X. Văn kiện trình bày và quy định Các Giờ Kinh phụng vụ, 9: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v. 1 (Typis Polyglottis Vaticanus 1973) 25.
7 Thánh Gio-an Ma-ri-a Viannê, Oratio, apud B. Nodet, Le Curé d’Ars, Sa pensée-son coeur (Le Puy 1966) 45.
8 X. Mt 6,11.34.
9 X. Lc 13,20-21.
Mục 2: Con đường cầu nguyện (2663-2682)
2663. 1201
Trong truyền thống sống động của việc cầu nguyện, mỗi Giáo Hội đề ra cho các tín hữu của mình, theo bối cảnh lịch sử, xã hội và văn hóa, một ngôn ngữ cầu nguyện của họ: những lời lẽ, giai điệu, cử chỉ và hình ảnh. Huấn quyền10 có trách nhiệm phân định xem những con đường cầu nguyện ấy có trung thành với truyền thống đức tin tông truyền không; các mục tử và giáo lý viên có trách nhiệm giải thích ý nghĩa, luôn quy chiếu vào Chúa Giê-su Ki-tô, của những con đường cầu nguyện này.
Kinh nguyện dâng lên Chúa Cha (2664)
2664. 2780
Kinh nguyện Ki-tô Giáo không có con đường nào khác ngoài Đức Ki-tô. Việc cầu nguyện của chúng ta, dù của cộng đoàn hoặc của cá nhân, dù là khẩu nguyện hay tâm nguyện, không thể dâng lên tới Chúa Cha nếu chúng ta không cầu nguyện “nhân danh Chúa Giê-su.” Quả vậy, nhân tính thánh thiện của Chúa Giê-su là con đường, qua đó Chúa Thánh Thần dạy chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Kinh nguyện dâng lên Chúa Giê-su (2665-2669)
2665. 451
Kinh nguyện của Hội Thánh, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và việc cử hành phụng vụ, dạy chúng ta cầu nguyện với Chúa Giê-su. Mặc dù kinh nguyện đó chủ yếu dâng lên Chúa Cha, nhưng trong tất cả các truyền thống phụng vụ, vẫn hàm chứa những hình thức cầu nguyện dâng lên Đức Ki-tô. Một số Thánh vịnh, như hiện được thích ứng trong kinh nguyện của Hội Thánh, và Tân Ước, đặt vào môi miệng và khắc ghi trong tâm hồn chúng ta những lời khẩn nguyện dâng lên Đức Ki-tô: Lạy Con Thiên Chúa, Ngôi Lời của Thiên Chúa, Chúa, Đấng Cứu độ, Chiên Thiên Chúa, Đức Vua, Con chí ái của Thiên Chúa, Con Đức Trinh Nữ, Vị Mục tử nhân lành, Sự Sống của chúng con, Ánh sáng của chúng con, Hy vọng của chúng con, Sự Phục sinh của chúng con, Bạn của loài người.
2666. 432, 435
Nhưng Danh thánh hàm chứa tất cả các tước hiệu trên là Danh thánh mà Con Thiên Chúa đã tiếp nhận trong cuộc Nhập Thể: đó là Danh thánh GIÊ-SU. Danh Thiên Chúa là siêu phàm, môi miệng loài của chúng ta không được đọc lên,11 nhưng Ngôi Lời Thiên Chúa, khi nhận lấy bản tính nhân loại của chúng ta, đã trao Danh ấy cho chúng ta, và chúng ta có thể kêu cầu Danh ấy: “Giê-su”, nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ.”12 Danh thánh Giê-su bao hàm mọi sự: Thiên Chúa và con người cùng với toàn thể Nhiệm cục tạo dựng và cứu độ. Cầu nguyện danh “Giê-su”, là khẩn cầu Người, là kêu gọi Người. Danh của Người là Danh duy nhất hàm chứa sự hiện diện mà Danh ấy biểu thị. Chúa Giê-su là Đấng phục sinh, và bất cứ ai kêu cầu Danh Người thì đón nhận Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương họ và tự nộp mình vì họ.13
2667. 2616
Lời khẩn nguyện này của đức tin, tuy đơn sơ, đã được khai triển dưới nhiều hình thức trong truyền thống kinh nguyện Đông và Tây phương. Công thức thông dụng nhất, được các đan sĩ ở núi Xi-nai, Syria và núi Athos truyền lại, là lời khẩn nguyện: “Lạy Đức Giê-su Ki-tô, là Con Thiên Chúa, và là Chúa chúng con, xin thương xót chúng con là những kẻ tội lỗi.” Công thức này phối hợp thánh thi ca ngợi Đức Ki-tô trong Thư gửi giáo đoàn Phi-líp-phê (2,6-11) với lời van xin của người thu thuế và những người xin được sáng mắt.14 Nhờ lời khẩn nguyện này, tâm hồn được hòa nhịp với sự khốn cùng của con người và lòng thương xót của Đấng Cứu Độ họ.
2668. 435
Lời khẩn nguyện Danh thánh Chúa Giê-su là con đường đơn giản nhất của việc cầu nguyện liên lỉ. Được thường xuyên lặp đi lặp lại bởi một tâm hồn chăm chú cách khiêm tốn, lời khẩn nguyện này không bị phân tán thành những lời “lải nhải” (Mt 6,7), nhưng “nắm giữ Lời Chúa và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả.”15 Lời khẩn nguyện này có thể thực hiện “luôn luôn”, vì đây không phải là một công việc bên cạnh một công việc khác, nhưng chỉ là công việc duy nhất, đó là việc yêu mến Thiên Chúa, công việc này làm sinh động và biến đổi mọi hoạt động trong Đức Ki-tô Giê-su.
2669. 478, 1674
Cũng như việc khẩn nguyện Danh cực thánh của Chúa Giê-su, kinh nguyện của Hội Thánh còn tôn sùng Thánh Tâm Người. Việc tôn sùng này tôn thờ Ngôi Lời Nhập Thể và Thánh Tâm của Người, Thánh Tâm vì yêu thương loài người, đã để cho bị đâm thâu vì tội lỗi chúng ta. Kinh nguyện Ki-tô Giáo cũng mộ mến đi Đàng Thánh Giá, theo chân Đấng cứu độ. Các chặng từ dinh Tổng trấn đến đồi Gôlgôtha và Mộ Thánh làm thành con đường của Chúa Giê-su, Đấng đã cứu chuộc trần gian bằng thánh giá của Người.
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến” (2670-2672)
2670. 683, 2001, 1310
“Không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giê-su là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1 Cr 12,3). Mỗi khi chúng ta bắt đầu cầu nguyện với Chúa Giê-su, thì chính Chúa Thánh Thần dùng ân sủng dự phòng của Ngài, đưa chúng ta vào con đường cầu nguyện. Ngài dạy chúng ta cầu nguyện khi nhắc chúng ta nhớ đến Đức Ki-tô, thì lẽ nào chúng ta lại không cầu nguyện với chính Ngài? Vì vậy, Hội Thánh mời gọi chúng ta cầu khẩn Chúa Thánh Thần mỗi ngày, nhất là khi khởi sự và kết thúc mọi hoạt động quan trọng.
“Nếu như Chúa Thánh Thần không đáng được tôn thờ, thì làm sao Ngài thần hóa tôi bằng bí tích Rửa Tội được? Còn nếu Ngài đáng được tôn thờ, thì lẽ nào Ngài lại không được tôn thờ cách đặc biệt?”16
2671. Công thức truyền thống để xin Chúa Thánh Thần là kêu cầu Chúa Cha, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng ta, để Chúa Cha ban cho chúng ta Thần Khí An ủi.17 Chúa Giê-su nhấn mạnh đến lời cầu xin này nhân danh Người, khi Người hứa ban hồng ân là Thần Khí sự thật.18 Nhưng lời cầu nguyện đơn giản và trực tiếp nhất theo truyền thống là: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến.” Mọi truyền thống phụng vụ đã khai triển lời nguyện ấy trong các điệp ca và thánh thi:
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến, xin tràn ngập tâm hồn các tín hữu của Chúa, và xin nhóm lửa tình yêu Chúa trong họ.”19
“Lạy Đức Vua thiên quốc, Đấng An ủi, Thần Khí sự thật, Đấng hiện diện khắp nơi và tràn ngập vạn sự, là kho tàng mọi điều thiện hảo và là nguồn mạch sự sống, xin ngự đến, xin cư ngụ trong chúng con, xin thanh tẩy chúng con sạch mọi vết nhơ và xin cứu độ linh hồn chúng con, lạy Chúa là Đấng nhân lành.”20
2672. 695
Chúa Thánh Thần, mà dầu của Ngài thấm nhập toàn thể con người chúng ta, là Vị Thầy nội tâm của việc cầu nguyện Ki-tô Giáo. Chính Ngài là Đấng kiến tạo truyền thống sống động của việc cầu nguyện. Quả thật, có bao nhiêu người cầu nguyện thì có bấy nhiêu đường lối cầu nguyện, nhưng cùng một Thần Khí hoạt động trong mọi người và cùng với mọi người. Trong sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần, kinh nguyện Ki-tô Giáo là kinh nguyện trong Hội Thánh.
Hiệp thông với Thánh Mẫu của Thiên Chúa (2673-2679)
2673. 689
Trong việc cầu nguyện, Chúa Thánh Thần liên kết chúng ta với Ngôi Vị của Người Con Một trong nhân tính đã được tôn vinh của Người. Nhờ và trong nhân tính ấy, lời cầu nguyện con thảo của chúng ta hiệp thông với Thân Mẫu Chúa Giê-su trong Hội Thánh.21
2674. 494
Từ khi Đức Ma-ri-a ưng thuận trong đức tin lúc Truyền Tin và không ngần ngại giữ vững sự ưng thuận đó dưới chân thập giá, tình mẫu tử của Mẹ từ đó lan rộng tới những người anh em và chị em của Con Mẹ “còn trên đường lữ hành và đang gặp nhiều hiểm nguy gian khó.”22 Chúa Giê-su, Đấng trung gian duy nhất, là con đường cầu nguyện của chúng ta. Đức Ma-ri-a, Mẹ Người và cũng là Mẹ chúng ta, trở thành hình ảnh hoàn toàn trong suốt của Người. Theo cách trình bày bích họa của truyền thống Giáo Hội Đông và Tây phương: Mẹ “chỉ đường”, Mẹ là “Dấu chỉ” của Con đường là Chúa Giê-su.
2675. 970, 512, 2619
Chính từ sự cộng tác đặc biệt này của Đức Ma-ri-a với hoạt động của Chúa Thánh Thần, mà các Giáo Hội đã triển khai kinh nguyện dâng lên Thánh Mẫu của Thiên Chúa, quy hướng kinh nguyện ấy về trung tâm là Ngôi Vị Đức Ki-tô, được biểu lộ trong các mầu nhiệm của Người. Trong vô số thánh thi và điệp ca diễn tả kinh nguyện này, có hai động thái thường thay đổi nhau: một là “ngợi khen” Chúa vì “những điều cao cả” Ngài đã làm cho Mẹ, người nữ tỳ khiêm hạ của Ngài, và qua Mẹ, cho tất cả mọi người;23 hai là dâng lên Mẹ Chúa Giê-su những lời cầu khẩn và ca ngợi của con cái Thiên Chúa, vì giờ đây Mẹ biết rõ nhân loại, mà trong Mẹ, nhân loại ấy đã được Con Thiên Chúa kết hợp như hiền thê của Người.
2676. 722, 490, 435, 146
Hai động thái nói trên của kinh nguyện dâng lên Đức Ma-ri-a được diễn tả cách độc đáo trong kinh Kính Mừng:
“Kính mừng Ma-ri-a” (Ave, Ma-ri-a – Laetare, Ma-ri-a): lời chào của thiên sứ Gáp-ri-en mở đầu kinh Kính mừng. Chính Thiên Chúa, qua vị thiên sứ của Ngài, chào Đức Ma-ri-a. Lời kinh của chúng ta dám lặp lại lời chào Đức Ma-ri-a với tâm tình của Thiên Chúa khi Ngài đoái thương nhìn đến người nữ tỳ hèn mọn của Ngài24 và hân hoan vì niềm vui mà Thiên Chúa gặp được nơi Đức Ma-ri-a.25
Bài này đã được xem 5647 lần!