“Bà đầy ân phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà”: hai phần lời chào của vị thiên sứ soi sáng cho nhau. Đức Ma-ri-a đầy ân sủng vì Chúa ở cùng Mẹ. Ân sủng, mà Mẹ được ban tràn đầy, chính là sự hiện diện của Đấng là nguồn mạch mọi ân sủng. “Reo vui lên… hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem… ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi” (Sp 3,14.17a). Đức Ma-ri-a, vì được chính Chúa đến và ngự nơi Mẹ, nên Mẹ chính là thiếu nữ Xi-on, là Hòm bia Giao Ước, nơi vinh quang Chúa ngự trị: chính Mẹ là “nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại” (Kh 21,3). Được “đầy ơn phúc”, Mẹ đã tận hiến cho Đấng đến ngự nơi Mẹ và là Đấng Mẹ sắp trao ban cho thế gian.
“Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giê-su con lòng bà gồm phúc lạ.” Sau lời chào của thiên sứ, chúng ta lấy lời chào của bà Ê-li-sa-bét làm lời chào của chúng ta. “Được tràn đầy Thánh Thần” (Lc 1,41), bà Ê-li-sa-bét là người đầu tiên trong chuỗi dài những thế hệ tung hô Đức Ma-ri-a là người có phúc:26 “Em thật có phúc vì đã tin…” (Lc 1,45). Đức Ma-ri-a “có phúc lạ hơn mọi người nữ” vì Mẹ đã tin rằng lời Chúa sẽ được hoàn thành. Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã trở thành phúc lành cho “mọi gia tộc trên mặt đất” (St 12,3). Nhờ đức tin, Đức Ma-ri-a đã trở thành Mẹ của các kẻ tin; nhờ Mẹ, mọi dân tộc trên mặt đất được đón nhận Đấng là chính phúc lành của Thiên Chúa: “Giê-su, con lòng bà gồm phúc lạ.”
2677. 495, 1020
“Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con…”. Cùng với bà Ê-li-sa-bét chúng ta sửng sốt: “Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1,43). Đức Ma-ri-a, vì đã tặng ban cho chúng ta Chúa Giê-su là Con của Mẹ, nên Mẹ là Thân mẫu của Thiên Chúa và là Thân mẫu của chúng ta: chúng ta có thể phó thác cho Mẹ mọi nỗi âu lo và những lời cầu xin của chúng ta. Mẹ cầu nguyện cho chúng ta như Mẹ đã cầu nguyện cho bản thân Mẹ: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Khi phó thác để Mẹ cầu nguyện cho chúng ta, chúng ta cùng với Mẹ phó dâng bản thân chúng ta cho thánh ý Thiên Chúa: “Nguyện cho ý Cha thể hiện.”
“Cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. Khi xin Đức Mẹ cầu nguyện cho chúng ta, chúng ta nhìn nhận mình là những người tội lỗi khốn cùng và kêu cầu đến “Mẹ của lòng thương xót”, Mẹ hoàn toàn thánh thiện. Chúng ta trao phó bản thân cho Mẹ “khi nay”, là ngày hôm nay của cuộc đời chúng ta. Lòng tín thác của chúng ta được mở rộng để ngay từ bây giờ chúng ta đã trao phó “giờ lâm tử” của chúng ta cho Mẹ. Xin Mẹ hiện diện trong giờ phút đó như Mẹ đã hiện diện lúc Con Mẹ chết trên thập giá. Vào giờ chúng ta qua đời, với tư cách là Mẹ chúng ta,27 xin Mẹ đón nhận và dẫn chúng ta đến với Con của Mẹ, trên thiên đàng.
2678. 971, 1674
Lòng đạo đức ở Tây phương thời Trung Cổ đã quảng bá việc cầu nguyện bằng kinh Mân Côi, như một thứ thay thế bình dân cho Các Giờ Kinh phụng vụ. Ở Đông phương, hình thức kinh cầu, như Akathistos và Paraklisis, gần gũi hơn với kinh nguyện cộng đoàn trong các Giáo hội Byzantin; trong khi đó các truyền thống của Armeni, Copte và Syri lại chuộng các thánh thi và thánh ca bình dân kính Mẹ Thiên Chúa. Nhưng kinh Kính Mừng, các thánh thi kính Mẹ Thiên Chúa của thánh Êphrem hoặc của thánh Grêgôriô Narek, về cơ bản vẫn lưu giữ cùng một truyền thống cầu nguyện.
2679. 967, 972
Đức Ma-ri-a là Người phụ nữ cầu nguyện trọn hảo, là hình ảnh của Hội Thánh. Khi cầu nguyện với Mẹ, chúng ta cùng với Mẹ gắn bó với ý định của Chúa Cha, Đấng sai Con Một Ngài đến để cứu độ tất cả mọi người. Như người môn đệ yêu dấu, chúng ta đón nhận về nhà chúng ta28 Mẹ Chúa Giê-su, đã trở thành Mẹ của mọi sinh linh. Chúng ta có thể cầu nguyện cùng với Mẹ và kêu cầu Mẹ. Kinh nguyện của Hội Thánh như được nâng đỡ bởi kinh nguyện của Đức Ma-ri-a. Kinh nguyện này được kết hợp với Mẹ trong niềm hy vọng.29
Tóm lược (2680-2692)
2680. Việc cầu nguyện chủ yếu dâng lên Chúa Cha, cũng được dâng lên Chúa Giê-su, nhất là qua việc kêu cầu Thánh Danh Người: “Lạy Đức Giê-su Ki-tô, là Con Thiên Chúa và là Chúa chúng con, xin thương xót chúng con là những kẻ tội lỗi.”
2681. “Không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giê-su là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1 Cr 12,3). Hội Thánh mời gọi chúng ta kêu cầu Chúa Thánh Thần như Vị Thầy nội tâm của việc cầu nguyện Ki-tô Giáo.
2682. Vì Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã cộng tác cách độc đáo với hoạt động của Chúa Thánh Thần, nên Hội Thánh ưa thích cầu nguyện trong sự hiệp thông với Mẹ, để cùng Mẹ tán dương những việc cao cả Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ và để phó thác cho Mẹ những lời khẩn cầu và ca ngợi.
Chú thích
10 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 10: AAS 58 (1966) 822.
11 X. Xh 3,14; 33,19-23.
12 X. Mt 1,21.
13 X. Rm 10,13; Cv 2,21; 3,15-16; Gl 2,20.
14 X. Lc 18,13; Mc 10,46-52..
15 X. Lc 8,15.
16 Thánh Grêgôriô thành Nazien, Oratio 31 (theologica 5), 28: SC 250,332 (PG 36,165).
17 X. Lc 11,13.
18 X. Ga 14,17; 15,26; 16,13.
19 Lễ trọng Chúa Thánh Thần hiện xuống, Điệp ca kinh “Magnificat” Kinh Chiều I: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v. 2 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 798; x. Lễ trọng Chúa Thánh Thần hiện xuống, Thánh lễ chính ngày, Ca tiếp liên: Lectionarium, v. 1, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 855-856.
20 Officium Horarum Byzantinum, Vespertinum in die Pentecostes, Sticherum 4 : Pentekostarion (Romae 1884) 394.
21 X. Cv 1,14.
22 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 62: AAS 57 (1965) 63.
23 X. Lc 1,46-55.
24 X. Lc 1,48.
25 X. Sp 3,17.
26 X. Lc 1,48.
27 X. Ga 19,27.
28 X. Ga 19,27.
29 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 68-69: AAS 57 (1965) 66-67.
Mục 3: Những người hướng dẫn cầu nguyện (2683-2696)
Đông đảo các chứng nhân (2683-2684)
2683. 956
Những chứng nhân đã đi trước chúng ta vào Nước Thiên Chúa,30 nhất là những vị được Hội Thánh nhìn nhận là “các Thánh”, hiệp thông vào truyền thống sống động của việc cầu nguyện, bằng gương sáng đời sống, bằng việc lưu truyền các văn phẩm và bằng lời cầu nguyện hiện nay của các ngài. Các ngài đang chiêm ngưỡng Thiên Chúa, ca tụng Ngài và không ngừng chăm sóc những người còn ở trần gian. Các ngài, những vị đã đi vào “hưởng niềm vui” của Chúa mình, đã được đặt lên trông coi “nhiều việc.”31 Sự chuyển cầu của các ngài là việc các ngài phục vụ kế hoạch của Thiên Chúa cách cao cả nhất. Chúng ta có thể và phải cầu nguyện để các ngài chuyển cầu cho chúng ta và cho toàn thế giới.
2684. 917, 919, 1202
Trong mầu nhiệm các Thánh thông công, đã có nhiều đường hướng linh đạo phát sinh suốt dòng lịch sử Hội Thánh. Đặc sủng riêng của từng chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa đối với con người, có thể được truyền lại, như “thần trí” của ông Ê-li-a được truyền lại cho ông Êlisê32 và cho ông Gio-an Tẩy Giả,33 để các môn đệ có thể tham dự vào thần trí ấy.34 Một linh đạo nào đó cũng là kết tinh của những trào lưu phụng vụ và thần học khác nhau, và làm chứng cho sự hội nhập đức tin vào một môi trường nhân văn trong lịch sử. Các linh đạo Ki-tô Giáo tham dự vào truyền thống sống động của việc cầu nguyện và là những hướng dẫn cần thiết cho các tín hữu. Các linh đạo này, tuy rất đa dạng, đều tỏa chiếu ánh sáng tinh tuyền và duy nhất của Chúa Thánh Thần.
“Thần Khí thật sự là nơi lưu ngụ của các Thánh. Thánh nhân cũng là nơi lưu ngụ riêng của Thần Khí, vì thánh nhân đã tự hiến để ở cùng Thiên Chúa và được gọi là đền thờ của Ngài.”35
Thừa tác viên của việc cầu nguyện (2685-2690)
2685. 1657
Gia đình Ki-tô hữu là nơi đầu tiên để dạy cầu nguyện. Được xây dựng trên nền tảng bí tích Hôn phối, gia đình là “Hội Thánh tại gia”, nơi đó các con cái Thiên Chúa học cầu nguyện “với tính cách là Hội Thánh” và kiên trì trong việc cầu nguyện. Đặc biệt với các trẻ nhỏ, kinh nguyện hằng ngày trong gia đình là chứng từ đầu tiên về ký ức sống động của Hội Thánh luôn được Chúa Thánh Thần khơi dậy.
2686. 1547
Các thừa tác viên có chức thánh cũng là những người có trách nhiệm trong việc đào tạo cho anh chị em mình trong Đức Ki-tô biết cầu nguyện. Những người này, là các tôi tớ của vị Mục tử nhân lành, được truyền chức thánh để dẫn dắt dân Thiên Chúa đến các nguồn mạch sống động của việc cầu nguyện: đến Lời Chúa, phụng vụ, đời sống đối thần, đến “Ngày hôm nay” của Thiên Chúa trong những hoàn cảnh cụ thể.36
2687. 916
Nhiều tu sĩ đã dâng hiến trọn đời để cầu nguyện. Từ sa mạc Ai-cập, các ẩn sĩ, các đan sĩ nam nữ đã dành thời giờ để ca ngợi Thiên Chúa và chuyển cầu cho dân Ngài. Đời sống thánh hiến không thể tồn tại và triển nở nếu không có kinh nguyện. Đời sống này là một trong những nguồn mạch sống động của việc chiêm niệm và đời sống thiêng liêng trong Hội Thánh.
2688. 1674
Việc dạy giáo lý cho thiếu nhi, thiếu niên và người trưởng thành đều hướng tới việc suy gẫm Lời Chúa trong kinh nguyện cá nhân, được hiện tại hóa trong kinh nguyện phụng vụ, và được nội tâm hóa trong mọi lúc, để sinh hoa kết quả trong một đời sống mới. Việc dạy giáo lý cũng là lúc để có thể phân định và giáo dục lòng đạo đức bình dân.37 Việc học thuộc lòng các kinh căn bản rất cần cho đời sống cầu nguyện; nhưng điều quan trọng là phải giúp người ta cảm nhận được ý nghĩa của những kinh nguyện này.38
2689. Các nhóm cầu nguyện hoặc các “trường cầu nguyện” ngày nay là những dấu chỉ và phương tiện để canh tân việc cầu nguyện trong Hội Thánh, nếu được kín múc từ những nguồn mạch đích thực của việc cầu nguyện Ki-tô Giáo. Mối quan tâm đến sự hiệp thông là dấu chỉ của việc cầu nguyện đích thực trong Hội Thánh.
2690. Chúa Thánh Thần ban cho một số tín hữu các ơn khôn ngoan, đức tin và khả năng phân định nhằm phục vụ lợi ích chung là việc cầu nguyện (việc linh hướng). Những người nam cũng như nữ được phúc nhận các ơn này là những thừa tác viên đích thực trong truyền thống sống động của việc cầu nguyện:
Vì vậy, linh hồn nào muốn tiến lên trong sự hoàn thiện, theo lời khuyên của thánh Gio-an Thánh Giá, “phải xem xét kỹ khi chọn vị linh hướng, vì thầy nào trò nấy, cha nào con nấy.” Ngài còn nói: “Vị linh hướng không phải chỉ thông thái và khôn ngoan, nhưng còn phải có kinh nghiệm… Nếu vị linh hướng không có kinh nghiệm về một tinh thần trong sạch và chân thật, thì không biết dẫn dắt linh hồn về tinh thần đó, khi Thiên Chúa ban điều đó cho người này, và vị linh hướng cũng không hiểu được điều đó.”39
Những nơi thuận tiện cho việc cầu nguyện (2691)
2691. 1181, 2097, 1379, 1175, 1674
Nhà Thờ, nhà của Thiên Chúa, là nơi thích hợp cho kinh nguyện phụng vụ của cộng đoàn giáo xứ. Đây còn là nơi đặc biệt để thờ lạy Đức Ki-tô đang hiện diện thật sự trong Bí tích cực thánh. Chọn một nơi thích hợp để cầu nguyện là điều phải quan tâm:
– Để cầu nguyện riêng, nơi này có thể là một “góc cầu nguyện” với Sách Thánh và các ảnh tượng, để chúng ta có thể hiện diện “nơi kín đáo” trước mặt Cha chúng ta.40 Trong gia đình Ki-tô Giáo, một loại nguyện đường nhỏ cũng rất thuận tiện cho việc cầu nguyện chung.
– Những nơi có các đan viện, những cộng đoàn này nên tạo điều kiện để các tín hữu được tham dự các Giờ Kinh phụng vụ, và giúp họ có được sự cô tịch cần thiết để cầu nguyện riêng sốt sắng hơn.41
– Những cuộc hành hương nhắc nhớ chúng ta ở trần gian nhưng đang tiến bước về trời. Theo truyền thống đây là những thời gian rất thích hợp để canh tân việc cầu nguyện. Đối với các khách hành hương đang tìm kiếm cho mình những nguồn mạch sống động, các đền thánh là những nơi đặc biệt để họ, “với tính cách là Hội Thánh”, sống những thể thức cầu nguyện của Ki-tô Giáo.
Tóm lược (2692-2696)
2692. Hội Thánh lữ hành liên kết lời cầu nguyện của mình với lời cầu nguyện của các Thánh, tha thiết nài xin các ngài chuyển cầu cho mình.
2693. Các linh đạo khác nhau của Ki-tô Giáo tham gia vào truyền thống sống động của việc cầu nguyện và là những hướng dẫn rất quý giá cho đời sống thiêng liêng.
2694. Gia đình Ki-tô Giáo là nơi đầu tiên để dạy cầu nguyện.
2695. Các thừa tác viên có chức thánh, đời sống thánh hiến, việc dạy giáo lý, các nhóm cầu nguyện, việc “linh hướng”, là những trợ lực hữu ích cho việc cầu nguyện trong Hội Thánh.
2696. Những nơi thuận tiện nhất để cầu nguyện là những góc cầu nguyện cho cá nhân hay cả gia đình; các đan viện, các đền thánh để hành hương và, nhất là nhà thờ, đối với cộng đoàn giáo xứ, là nơi thích hợp để cầu nguyện phụng vụ và là nơi đặc biệt để tôn thờ Thánh Thể.
Chú thích
30 X. Dt 12,1.
31 X. Mt 25,21.
32 X. 2 V 2,9.
33 X. Lc 1,17.
34 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Perfectae caritatis, 2: AAS 58 (1966) 703.
35 Thánh Ba-si-li-ô Cả, Liber de Spiritu Sancto, 26, 62: SC 17bis, 472 (PG 32,184).
36 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 4-6: AAS 58 (1966) 995-1001.
37 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Catechesi tradendae, 54: AAS 71 (1979) 1321-1322.
38 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Catechesi tradendae, 55: AAS 71 (1979) 1322-1323.
39 Thánh Gio-an Thánh Giá, Llama de amor viva, redactio secunda, stropha 3, declaratio, 30: Biblioteca Mística Carmelitana, v. 13 (Burgos 1931) 171.
40 X. Mt 6,6.
41 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Perfectae caritatis, 7: AAS 58 (1966) 705.
CHƯƠNG III: ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN (2697-2758)
2697. 1099
Cầu nguyện là sự sống của một trái tim mới. Cầu nguyện phải làm cho chúng ta được sống động mọi lúc. Tuy nhiên, chúng ta lại quên Đấng là Sự Sống và là Tất Cả của chúng ta. Vì thế, các bậc thầy linh đạo, theo truyền thống của Đệ Nhị Luật và của các tiên tri, đều nhấn mạnh đến việc cầu nguyện như là “nhớ đến Thiên Chúa”, là thường xuyên đánh thức “ký ức của trái tim.” “Chúng ta phải nhớ đến Thiên Chúa thường xuyên hơn là chúng ta hít thở.”1 Nhưng chúng ta không thể cầu nguyện “trong mọi lúc”, nếu không có những thời điểm chủ ý dành để cầu nguyện: đây là những nhịp mạnh của kinh nguyện Ki-tô Giáo, chuyên chú hơn và kéo dài hơn.
2698. 1168, 1174, 2177
Truyền thống của Hội Thánh đề ra cho các tín hữu những chu kỳ cầu nguyện để nuôi dưỡng việc cầu nguyện liên tục. Chu kỳ hằng ngày là: kinh sáng và kinh chiều, trước và sau các bữa ăn, các Giờ Kinh phụng vụ. Ngày Chúa Nhật, mà trọng tâm là Thánh lễ, được thánh hóa chủ yếu bằng kinh nguyện. Chu kỳ năm phụng vụ và những ngày lễ lớn là những nhịp căn bản cho đời sống cầu nguyện của các Ki-tô hữu.
2699. 2563
Chúa dẫn dắt mỗi người bằng những đường lối và cách thức đẹp ý Ngài. Mỗi tín hữu cũng đáp lời Ngài theo quyết định của lòng mình và những cách diễn đạt cá vị kinh nguyện của mình. Tuy nhiên, truyền thống Ki-tô Giáo đã lưu giữ ba cách diễn đạt quan trọng của đời sống cầu nguyện: khẩu nguyện, suy niệm và cầu nguyện chiêm niệm. Đặc điểm chung của cả ba cách diễn đạt này là sự tập trung tâm hồn. Thái độ tỉnh thức để tuân giữ Lời Chúa và luôn ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa làm cho ba cách diễn đạt này thành những nhịp mạnh của đời sống cầu nguyện.
Đề mục
Mục 1: Những cách diễn đạt việc cầu nguyện (2700-2724)
Mục 2: Cuộc chiến đấu của việc cầu nguyện (2725-2745)
Mục 3: Lời cầu nguyện trong Giờ của Chúa Giê-su (2746-2758)
Chú thích
1 Thánh Grêgôriô thành Nazien, Oratio 27 (theologica 1), 4: SC 250,78 (PG 36,16).
Mục 1: Những cách diễn đạt việc cầu nguyện (2700-2724)
I. Khẩu nguyện (2700-2704)
2700. 1176
Thiên Chúa nói với con người bằng Lời của Ngài. Chính nhờ các lời, trong tâm trí hay đọc ra miệng, mà việc cầu nguyện của chúng ta hình thành. Nhưng điều tối quan trọng là sự hiện diện của trái tim hướng về Đấng chúng ta ngỏ lời khi cầu nguyện. “Lời cầu nguyện của chúng ta có được đoái nhận hay không, không hệ tại ở nhiều lời, nhưng ở sự tỉnh thức của tâm trí.”2
2701. 2603, 612
Khẩu nguyện là yếu tố rất cần thiết cho đời sống Ki-tô hữu. Các môn đệ bị lôi cuốn bởi việc cầu nguyện thầm lặng của Thầy mình, đã được Đức Ki-tô dạy cho một kinh khẩu nguyện: đó là Kinh Lạy Cha. Chúa Giê-su không những cầu nguyện theo phụng vụ của Hội đường, nhưng các sách Tin Mừng còn cho ta thấy Người lớn tiếng bày tỏ lời cầu nguyện riêng của Người nữa, từ việc hân hoan chúc tụng Chúa Cha3 cho đến lúc ngặt nghèo ở Ghết-sê-ma-ni.4
2702. 1146
Nhu cầu liên kết các giác quan với việc cầu nguyện nội tâm đáp ứng đòi hỏi của bản tính loài người chúng ta. Chúng ta là thân xác và tinh thần, và chúng ta nghiệm thấy nhu cầu phải diễn đạt những tâm tình của chúng ta ra bên ngoài. Cần cầu nguyện với trót cả con người chúng ta, để mang lại sức lực tối đa cho lời khẩn cầu của chúng ta.
2703. 2097
Nhu cầu này cũng đáp ứng đòi hỏi của Thiên Chúa. Thiên Chúa tìm kiếm những kẻ thờ phượng Ngài trong Thần Khí và Sự Thật, và do đó tìm kiếm lời cầu nguyện dâng lên từ cõi sâu thẳm của linh hồn. Ngài cũng muốn cách diễn đạt bên ngoài kết hợp thân xác với lời cầu nguyện nội tâm, bởi vì việc cầu nguyện như thế sẽ dâng lên Thiên Chúa sự tôn kính trọn vẹn, là điều Ngài có quyền đòi hỏi.
2704. Vì khẩu nguyện phát biểu ra bên ngoài và hợp với bản tính nhân loại, nên rất thích hợp với việc cầu nguyện của đám đông. Ngay cả lời cầu nguyện thầm kín nhất cũng không thể không cần đến khẩu nguyện. Việc cầu nguyện trở thành nội tâm tùy mức độ chúng ta ý thức về Đấng mà chúng ta thưa chuyện.5 Khi đó, khẩu nguyện của Hội Thánh trở thành hình thức đầu tiên của việc cầu nguyện chiêm niệm.
II. Suy niệm (2705-2708)
2705. 158, 127
Suy niệm trước tiên là một sự tìm kiếm. Tâm trí tìm hiểu lý do và cách diễn đạt đời sống Ki-tô hữu như thế nào, để gắn bó và đáp lại điều Chúa đòi hỏi. Điều khó trong suy niệm là phải cầm trí. Thông thường, người ta dùng một cuốn sách nào đó để hỗ trợ; và các Ki-tô hữu không thiếu những sách như vậy: Sách Thánh, đặc biệt là các sách Tin Mừng, các ảnh tượng thánh, các bản văn phụng vụ theo ngày hoặc theo mùa, tác phẩm của các Linh phụ, các sách linh đạo, cuốn sách vĩ đại là công trình tạo dựng và cuốn sách vĩ đại là lịch sử, trang sách về “Ngày hôm nay” của Thiên Chúa.
Bài này đã được xem 5651 lần!