GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

2796. 1003

Khi đọc kinh “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, Hội Thánh tuyên xưng chúng ta là dân Thiên Chúa, đã được cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời,50 tuy còn đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa,51 và đồng thời, đang “rên siết là vì những ước mong được thấy ngôi nhà thiên quốc của chúng ta phủ lên chiếc lều ở dưới đất này” (2 Cr 5,2):52

Các Ki-tô hữu “ở trong xác phàm, nhưng không sống theo xác phàm. Họ sống nơi dương thế, nhưng có quyền công dân trên trời.”53

Tóm lược (2797-2802)

2797. Lòng tin tưởng đơn sơ và trung tín, sự phó thác khiêm tốn và hân hoan là những thái độ mà người cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha phải có.

2798. Chúng ta có thể kêu cầu Thiên Chúa là “Cha”, bởi vì Con Thiên Chúa đã mặc khải cho chúng ta. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được tháp nhập vào Con Thiên Chúa và được thừa nhận làm con cái Thiên Chúa.

2799. Lời Kinh Chúa dạy cho chúng ta được hiệp thông với Chúa Cha và với Con của Ngài là Chúa Giê-su Ki-tô. Lời kinh này đồng thời mặc khải cho chúng ta biết về chính mình.54

2800. Lời cầu nguyện dâng lên Cha chúng ta phải khơi dậy trong chúng ta ước muốn được nên giống như Ngài, cũng như giúp chúng ta có lòng khiêm tốn và phó thác.

2801. Khi gọi Thiên Chúa là “Cha chúng con”, chúng ta kêu cầu đến Giao Ước Mới trong Chúa Giê-su Ki-tô, sự hiệp thông với Ba Ngôi Chí Thánh và tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu, nhờ Hội Thánh, trải rộng tới các chiều kích của trần gian.

2802. Thuật ngữ “ở trên trời” không muốn ám chỉ một vị trí nào đó, nhưng diễn tả sự uy nghi cao cả của Thiên Chúa và sự hiện diện của Ngài trong trái tim những người công chính. “Trời” là Nhà Cha, nên là quê hương thật sự mà chúng ta hướng tới, và hiện chúng ta đã thuộc về quê hương đó.


Chú thích

21 Thánh Phê-rô Kim ngôn, Sermo 71, 3: CCL 24A, 425 (PL 52,401).

22 X. Ep 3,12; Dt 3,6; 4,16; 10,19; 1 Ga 2,28; 3,21; 5,14.

23 Tertullianô, De oratione, 3, 1: CCL 1,258-259 (PL 1,1257)

24 X. 1 Ga 1,1.

25 X. 1 Ga 5,1.

26 X. 1 Ga 1,3.

27 Thánh Cyrillô thành Giê-ru-sa-lem, Catecheses mystagogicae, 3, 1: SC 126,120 (PG 33,1088).

28 Thánh Cyprianô, De dominica Oratione, 9: CCL 3A, 94 (PL 4,541).

29 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.

30 Thánh Ambrôsiô, De Sacramentis, 5, 19: CSEL 73,66 (PL 16,450).

31 Thánh Cyprianô, De dominica Oratione, 11: CCL 3A, 96 (PL 4,543).

32 Thánh Gio-an Kim Khẩu, De angusta porta et in Orationem dominicam, 3: PG 51,44.

33 Thánh Grêgôriô thành Nyssa, Homiliae in Orationem dominicam, 2: Gregorii Nysseni opera, ed. W. Jaeger-H. Langerbeck, v. 7/2 (Leiden 1992) 30 (PG 44,1148).

34 Thánh Gio-an Cassianô, Conlatio 9, 18, 1: CSEL 13,265-266 (PL 49,788).

35 Thánh Augustinô, De sermone Domini in monte, 2, 4, 16: CCL 35,106 (PL 34,1276).

36 X. Hs 2,21-22; 6,1-6.

37 X. Ga 1,17.

38 X. 1 Ga 5,1; Ga 3,5.

39 X. Ep 4,4-6.

40 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegration, 8: AAS 57 (1965) 98; Ibid., 22: AAS 57 (1965) 105-106.

41 X. Mt 5,23-24; 6,14-15.

42 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Nostra aetate, 5: AAS 58 (1966) 743-744.

43 X. Ga 11,52.

44 Thánh Augustinô, De sermone Domini in monte, 2, 5, 18: CCL 35,108-109 (PL 34,1277).

45 Thánh Cyrillô thành Giê-ru-sa-lem, Catecheses mystagogicae, 5, 11: SC 126,160 (PG 33,1117).

46 X. St 3.

47 X. Gr 3,19-4,1a; Lc 15,18.21.

48 X. Is 45,8; Tv 85,12.

49 X. Ga 12,32; 14,2-3; 16,28; 20,17; Ep 4,9-10; Dt 1,3; 2,13.

50 X. Ep 2,6.

51 X. Cl 3,3.

52 X. Pl 3,20; Dt 13,14.

53 Epistula ad Diognetum, 5, 8-9: SC 33,62-64 (Funk 1,398).

54 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.

Mục 3: Bảy lời cầu xin (2803-2854)

2803. 2627

Sau khi chúng ta đến trước Thiên Chúa là Cha để thờ lạy, yêu mến và chúc tụng Ngài, Thần Khí nghĩa tử khơi lên trong lòng chúng ta bảy lời cầu xin, bảy lời chúc tụng. Ba lời đầu tiên, mang tính đối thần, hướng chúng ta lên vinh quang của Chúa Cha. Bốn lời sau, như những con đường đến với Thiên Chúa, phó dâng sự khốn cùng của chúng ta cho ân sủng của Ngài. “Kìa vực thẳm kêu gào vực thẳm” (Tv 42,8-10).

2804. Ba lời nguyện đầu tiên hướng chúng ta lên Thiên Chúa, cầu xin những điều thuộc về Ngài: Danh Cha, Nước Cha, Ý Cha. Đặc tính của tình yêu là trước tiên nghĩ đến người mình yêu. Trong mỗi lời cầu xin của ba lời nguyện này, chúng ta không nói gì đến “chúng con”, nhưng để cho mình bị lôi cuốn bởi “lòng khao khát nồng nhiệt”, bởi “sự lo lắng” của Người Con yêu dấu đối với vinh quang của Cha Người.55 “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện…”: Ba lời khẩn nguyện này đã được nhậm lời trong hy tế của Đức Ki-tô, Đấng cứu độ; nhưng sau đó, những lời nguyện này hướng đến hy vọng vào thành tựu chung cuộc, bao lâu Thiên Chúa chưa có toàn quyền trên muôn loài.56

2805. 1105

Các lời cầu xin sau theo tiến trình của một số kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần (Epiclesis) trong thánh lễ: dâng lên những mong đợi của chúng ta và xin Cha nhân hậu đoái nhìn. Các lời nguyện này phát xuất từ chúng ta và liên quan đến chúng ta, hiện nay trong cõi đời này: “Xin Cha cho chúng con…, và tha nợ chúng con…, xin chớ để chúng con…, nhưng cứu chúng con…” Lời cầu xin thứ tư và thứ năm liên quan đến cuộc sống chúng ta, hoặc là cần được nuôi dưỡng, hoặc là cần được chữa lành khỏi tội lỗi. Hai lời cầu xin cuối cùng liên quan đến cuộc chiến đấu nhắm sự sống được vinh thắng, tức là cuộc chiến đấu của chính việc cầu nguyện.

2806. 2656-2658

Nhờ ba lời cầu xin đầu tiên, chúng ta được củng cố trong đức tin, tràn đầy đức cậy và sốt sắng nhờ đức mến. Là thụ tạo và còn là tội nhân, chúng ta phải cầu xin cho chúng ta, từ ngữ “chúng ta” này mang chiều kích cả trần gian và lịch sử, chúng ta dâng cái “chúng ta” đó cho tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Vì nhờ Danh Đức Ki-tô của Ngài và Vương quốc của Thần Khí Ngài, mà Cha chúng ta hoàn thành kế hoạch cứu độ của Ngài, cho chúng ta và cho cả trần gian.

I. “Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng” (2807-2815) [2142-2159]

2807. 2097

Thuật ngữ “thánh hoá” ở đây không mang ý nghĩa nguyên nhân (chỉ có Thiên Chúa thánh hóa, làm cho nên thánh), nhưng chủ yếu có ý nghĩa trân trọng: nhận biết như thánh thiện, hay xử sự một cách thánh thiện. Vì thế, trong tâm tình thờ lạy, lời kêu cầu này đôi khi được hiểu như một lời ca ngợi và tạ ơn.57 Nhưng Chúa Giê-su đã dạy chúng ta lời cầu xin này dưới hình thức ước nguyện: cầu xin, ước muốn và mong đợi, liên hệ đến cả Thiên Chúa cả con người. Ngay từ lời cầu xin đầu tiên của kinh Lạy Cha, chúng ta đã được lôi cuốn vào mầu nhiệm nội tại của Thiên Chúa và thảm trạng của công trình cứu độ nhân loại. Nguyện cho “Danh Cha cả sáng” đưa chúng ta vào “kế hoạch yêu thương Ngài đã định từ trước” (Ep 1,9), “để trước thánh nhan Ngài, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Ngài” (Ep 1,4).

2808. Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài trong những thời điểm quyết định của nhiệm cục cứu độ, nhưng Ngài mặc khải Danh đó bằng cách thực hiện công trình của Ngài. Mà công trình này chỉ được thành tựu cho chúng ta và trong chúng ta, nếu Danh Ngài được thánh hóa nơi chúng ta và trong chúng ta.

2809. 203, 432, 293, 705

Sự thánh thiện của Thiên Chúa là trung tâm siêu phàm của mầu nhiệm vĩnh cửu của Ngài. Những gì về Ngài được tỏ hiện trong công trình tạo dựng và trong lịch sử, được Sách Thánh gọi là vinh quang, là vẻ rạng ngời của uy linh Ngài.58 Khi tạo dựng nhân loại “theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài” (St 1,26), Thiên Chúa trao triều thiên vinh quang cho con người,59 nhưng khi họ phạm tội, họ “bị tước mất vinh quang Thiên Chúa.”60 Từ đó, Thiên Chúa tỏ hiện sự thánh thiện của Ngài bằng cách mặc khải và ban tặng Danh Ngài cho con người, để phục hồi họ “theo hình ảnh của Ngài, Đấng đã tạo dựng nên họ” (Cl 3,10).

2810. 63

Trong lời hứa với tổ phụ Áp-ra-ham và lời thề kèm theo,61 chính Thiên Chúa nhập cuộc, nhưng không bộc lộ Danh Ngài. Ngài bắt đầu mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê62 và biểu lộ Danh Ngài trước mắt toàn dân, khi Ngài cứu họ khỏi Ai Cập: “Chúa là Đấng cao cả uy hùng” (Xh 15,1). Kể từ Giao ước Xi-nai, dân này là “của Ngài” và họ phải là một “dân thánh” (tiếng Do-thái còn có nghĩa là “dân được hiến thánh”),63 bởi vì Danh Thiên Chúa cư ngụ nơi họ.

2811. 2143

Tuy vậy, bất chấp Lề Luật thánh mà Thiên Chúa chí thánh64 ban và tái ban cho dân, và mặc dù Chúa, “vì Danh thánh của Ngài”, luôn kiên nhẫn, nhưng dân vẫn quay lưng lại với Đấng Thánh của Ít-ra-en và “tục hóa Danh thánh Ngài giữa chư dân.”65 Chính vì vậy, những người công chính trong Cựu Ước, những người nghèo, trở về từ cuộc lưu đày, và các tiên tri luôn cháy lửa nhiệt thành với Danh Ngài.

2812. 434

Sau cùng, Danh của Thiên Chúa chí thánh được mặc khải và được ban tặng cho chúng ta trong Chúa Giê-su, trong xác thể, với tư cách là Đấng Cứu Độ:66 Danh Thiên Chúa được mặc khải bằng điều “Người Là”, bằng lời Người và bằng hy lễ của Người.67 Đó là trung tâm của lời nguyện tư tế của Người: Lạy Cha chí thánh, “vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,19). Bởi vì Chúa Giê-su đã “thánh hiến” Danh của Người,68 nên Người “biểu lộ” cho chúng ta Danh của Chúa Cha.69 Lúc Người hoàn tất cuộc Vượt Qua, Chúa Cha ban cho Người một Danh vượt trên mọi danh: Đức Giê-su là Chúa để tôn vinh Thiên Chúa Cha.70

2813. 2013

Trong nước Rửa Tội, chúng ta đã “được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta” (1 Cr 6,11). Chúa Cha gọi chúng ta trong suốt cuộc đời để “sống thánh thiện” (1 Tx 4,7), và bởi vì nhờ Thiên Chúa mà chúng ta được hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su, “Đấng đã thánh hóa chúng ta” (1 Cr 1,30), nên vinh quang của Ngài và cuộc đời chúng ta đều tùy thuộc vào điều này, là Danh Ngài được thánh hóa trong chúng ta và bởi chúng ta. Lời cầu xin đầu tiên của chúng ta thúc bách như vậy.

“Thiên Chúa là Đấng Thánh Hóa, thì ai có thể thánh hóa Thiên Chúa? Nhưng bởi vì Ngài dạy: ‘Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh’ (Lv 11,44), nên chúng ta cầu xin, để một khi đã được thánh hóa nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kiên trì trong tình trạng chúng ta đã khởi đầu. Hằng ngày chúng ta phải cầu xin điều đó. Quả thật, ơn thánh hóa hằng ngày là cần thiết cho chúng ta, vì ngày nào chúng ta cũng phạm lỗi nên phải thanh tẩy không ngừng nhờ ơn thánh hóa… Chúng ta phải cầu nguyện để ơn thánh hóa này luôn tồn tại trong chúng ta.”71

2814. 2045

Có một liên hệ không thể tách rời giữa đời sống và kinh nguyện của chúng ta, để Danh Ngài được thánh hóa giữa chư dân:

“Chúng ta cầu xin Thiên Chúa thánh hóa Danh Ngài, nghĩa là Ngài cứu độ và thánh hóa toàn thể tạo vật bằng sự thánh thiện của Ngài. Danh đó là Danh ban ơn cứu độ cho trần gian đã hư mất. Nhưng chúng ta cầu xin để Danh Thiên Chúa được thánh hóa trong chúng ta bằng hành động của chúng ta. Bởi vì nếu chúng ta sống tốt lành, thì Danh Thiên Chúa được chúc tụng; nếu chúng ta sống tệ hại, thì Danh Ngài bị phỉ báng. Hãy nghe lời thánh Tông Đồ: ‘Chính vì các người mà danh Thiên Chúa bị phỉ báng giữa chư dân’ (Rm 2,24).72 Vì vậy, chúng ta cầu xin để Danh Thiên Chúa là thánh bao nhiêu, thì chúng ta sống xứng đáng với sự thánh thiện của Ngài bấy nhiêu.”73

“Khi chúng ta nguyện rằng: ‘Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng’, chúng ta cầu xin cho Danh Ngài được thánh hóa trong chúng ta, là những kẻ thuộc về Ngài, cũng như trong mọi kẻ khác, là những người mà ơn thánh Chúa còn đang chờ đợi; do đó, chúng ta sẵn sàng tuân mệnh lệnh hãy cầu nguyện cho tất cả mọi người, kể cả kẻ thù nữa. Đó là lý do chúng ta không minh nhiên đọc: xin cho Danh Cha được thánh hóa ‘ở nơi chúng con’, bởi vì chúng ta muốn cho Danh Cha được thánh hóa ‘ở nơi tất cả mọi người’.”74

2815. 2750

Lời nguyện đầu tiên này bao gồm tất cả các lời cầu xin khác, được đoái nhận nhờ lời cầu nguyện của Chúa Ki-tô, cũng như sáu lời cầu xin tiếp theo. Lời kinh dâng lên Chúa Cha là lời cầu nguyện của chúng ta, nếu được cầu nguyện nhân danh Chúa Giê-su.75 Chúa Giê-su đã cầu xin trong lời nguyện tư tế của Người: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ trong Danh Cha những người mà Cha đã ban cho con” (Ga 17,11).

II. “Nước Cha trị đến” (2816-2821)

2816. 541, 2632, 560, 1107

Trong Tân Ước, cùng một từ Basileia có thể dịch là “vương quyền” (danh từ trừu tượng), “nước” (danh từ cụ thể) hay “vương triều” (danh từ chỉ việc cai trị). Nước Thiên Chúa đang ở trước chúng ta. Nước đó đã gần đến trong Ngôi Lời nhập thể, đã được loan báo trong toàn bộ Tin Mừng, và đã đến trong sự chết và sống lại của Đức Ki-tô. Nước Thiên Chúa đến từ bữa Tiệc Ly và trong bí tích Thánh Thể, Nước đó đang ở giữa chúng ta. Nước đó sẽ đến trong vinh quang, khi Đức Ki-tô trao nó lại cho Cha Người:

“Có thể nói, Nước Thiên Chúa là chính Đức Ki-tô, Đấng chúng ta hằng ngày khát khao Người đến, và chúng ta mong mỏi việc Người ngự đến mau mau được tỏ hiện cho chúng ta. Đàng khác, cũng như Người là sự phục sinh bởi vì chúng ta được sống lại trong Người, thì cũng vậy, Người có thể được hiểu là Nước Thiên Chúa bởi vì chúng ta sẽ được hiển trị trong Người.”76

2817. 451, 2632, 671

Lời cầu xin này là lời “Marana tha”, là tiếng kêu cầu của Thần Khí và Hiền Thê: “Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến”:

“Giả như lời cầu xin này không đòi buộc phải van xin Nước Chúa mau đến đi nữa, thì chúng ta cũng bị thúc giục kêu gào điều đó vì muốn ôm lấy niềm hy vọng của chúng ta. Linh hồn các vị tử đạo nằm dưới bàn thờ lớn tiếng kêu lên Chúa: ‘Lạy Chúa, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn, không xét xử và không bắt những người sống trên mặt đất phải đền nợ máu chúng con?’ (Kh 6,10). Chắc chắn các ngài sẽ được xét xử công bằng vào ngày tận thế. Lạy Chúa, nguyện Nước Chúa mau đến.”77

2818. 769

Trong Kinh Lạy Cha, vấn đề chủ yếu là việc Nước Thiên Chúa đến cách chung cuộc lúc Đức Ki-tô trở lại.78 Nhưng ước muốn này không làm cho Hội Thánh xao lãng sứ mạng của mình ở trần gian, trái lại càng thúc giục Hội Thánh dấn thân hơn nữa. Vì từ ngày lễ Ngũ Tuần, cuộc Ngự đến của Nước Thiên Chúa là công trình của Thần Khí Chúa, Đấng kiện toàn công trình của Đức Ki-tô nơi trần gian và hoàn tất công việc thánh hóa.79

2819. 2046, 2516, 2519

“Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Chúa Thánh Thần” (Rm 14,17). Thời cuối cùng, mà chúng ta đang sống, là thời kỳ tuôn đổ Chúa Thánh Thần. Kể từ đó, cuộc chiến đấu quyết định giữa “xác thịt” và Thần Khí đã khởi đầu:80

“Chỉ tâm hồn thanh sạch mới có thể tin tưởng nói lên: ‘Nguyện Nước Cha trị đến’. Quả thật, ai nghe lời thánh Phao-lô dạy: ‘Vậy tội lỗi đừng có thống trị thân xác phải chết của anh em nữa’ (Rm 6,12), và biết giữ hành động, tư tưởng và lời nói của mình trong sạch, người đó mới có thể thưa với Thiên Chúa: ‘Nguyện Nước Cha trị đến’.”81

2820. 1049

Trong sự phân định theo Thần Khí, các Ki-tô hữu phải biết phân biệt giữa sự thăng tiến của Nước Thiên Chúa với sự tiến bộ của văn hóa và xã hội họ đang sống. Sự phân biệt này không phải là tách biệt. Ơn gọi của con người vào sự sống muôn đời không bãi bỏ nhưng củng cố nhiệm vụ của họ là phải sử dụng các năng lực và phương tiện do Đấng Tạo Hóa ban, để phục vụ công lý và hòa bình trên trần gian.82

2821. 2746

Lời cầu xin này được nâng đỡ và đoái nhận trong lời cầu nguyện của Chúa Giê-su,83 vốn hiện diện và hữu hiệu trong bí tích Thánh Thể; lời cầu nguyện này mang lại hoa trái trong đời sống mới theo các mối phúc.84

2822. 851, 2196

Ý muốn của Cha chúng ta là “mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,3-4). Ngài “kiên nhẫn… vì Ngài không muốn cho ai phải diệt vong” (2 Pr 3,9).85 Mệnh lệnh của Ngài, gồm tóm mọi mệnh lệnh khác, và diễn tả tất cả ý muốn của Ngài, là chúng ta hãy yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.86

III. “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (2822-2827)

2823. 59

Thiên Chúa “cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Ngài đã định từ trước… là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô. Cũng trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Ngài, đã tiền định cho chúng ta đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Ngài” (Ep 1,9-11). Vì thế, chúng ta tha thiết cầu xin để kế hoạch lân tuất này được thực hiện trọn vẹn dưới đất, như đã được thực hiện trên trời.

2824. 475, 612

Ý Cha được thực hiện một cách tuyệt hảo và một lần cho mãi mãi, trong Đức Ki-tô, và qua ý chí nhân loại của Người. Khi vào trần gian, Chúa Giê-su đã nói: “Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,7).87 Chỉ mình Chúa Giê-su mới có thể nói: “Tôi hằng làm những điều đẹp ý Ngài” (Ga 8,29). Khi cầu nguyện trong cơn hấp hối, Người hoàn toàn vâng phục ý Cha: “Xin đừng cho ý con thể hiện, mà là ý Cha” (Lc 22,42).88 Vì vậy, Chúa Giê-su “đã tự hiến vì tội lỗi chúng ta, theo ý muốn của Thiên Chúa” (Gl 1,4). “Theo ý đó, chúng ta được thánh hóa nhờ Chúa Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế” (Dt 10,10).

2825. 615

Chúa Giê-su, “dầu là Con Thiên Chúa, đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8), phương chi chúng ta, là những thụ tạo và là tội nhân, đã được nhận làm nghĩa tử trong Người. Chúng ta cầu xin Chúa Cha cho ý muốn của chúng ta được kết hợp với ý muốn của Con Ngài, để chu toàn thánh ý của Cha, là kế hoạch cứu độ hầu cho trần gian được sống. Trong công việc này, chúng ta hoàn toàn bất lực, nhưng nhờ kết hợp với Chúa Giê-su và nhờ quyền năng Thánh Thần của Ngài, chúng ta có thể phó dâng cho Chúa Cha ý muốn của chúng ta và quyết định chọn điều Con Ngài luôn luôn chọn: đó là làm điều đẹp lòng Cha.89

Bài này đã được xem 7991 lần!

Pages ( 94 of 96 ): <1 ... 9293 94 9596>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]