THÔNG ĐIỆP CENTESIMUS ANNUS (BÁCH CHU NIÊN)

Giáo hội tôn trọng sự độc lập chính đáng của thể chế dân chủ và Giáo hội không có tư cách để bảo rằng giải pháp thể chế hoặc lập hiến này hơn giải pháp thể chế hoặc lập hiến kia. Đóng góp của Giáo hội đối với lãnh vực chính trị chỉ là đóng góp quan điểm của mình về phẩm giá của con người, phẩm giá được mạc khải trọn vẹn trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể[99].

48.   Vai trò của nhà nước trong lãnh vực kinh tế

Những nhận xét tổng quát trên đây cũng được áp dụng cho vai trò của nhà nước trong lãnh vực kinh tế. Không thể triển khai hoạt động kinh tế, nhất là kinh tế thị trường, trong một môi trường không có thể chế pháp lý và chính trị. Trái lại, hoạt động ấy giả thiết các quyền tự do cá nhân và quyền tư hữu phải được bảo đảm, ấy là chưa kể đến một hệ thống tiền tệ ổn định và các dịch vụ công cộng hữu hiệu. Như vậy, nhiệm vụ chính yếu của nhà nước là bảo đảm những vấn đề trên, để những người lao động sản xuất có thể hưởng kết quả do sức lao động họ đã bỏ ra, và nhờ đó họ cảm thấy được khích lệ để làm việc một cách có hiệu quả và lương thiện. Một trong những trở ngại chính cho việc phát triển và trật tự kinh tế tốt đẹp, đó là tình trạng bất ổn kèm theo sự băng hoại của công quyền và sự gia tăng những cách làm giàu trái phép và chạy theo lợi nhuận dễ dãi bằng những hoạt động phi pháp hay thuần túy có tính cách đầu cơ.

Một nhiệm vụ khác của nhà nước là giám sát và hướng dẫn việc thi hành các quyền con người trong khu vực kinh tế; tuy nhiên trong lãnh vực này, trách nhiệm hàng đầu không thuộc về nhà nước, nhưng thuộc về cá nhân, các nhóm hoặc các tập thể khác nhau tạo nên xã hội. Nếu nhà nước trực tiếp bảo đảm cho mọi công dân quyền có công ăn việc làm thì sẽ phải kiểm soát toàn bộ sinh hoạt kinh tế, và như vậy cản trở quyền tự do sáng kiến của cá nhân (hoặc nhà nước không thể đứng ra bảo đảm trực tiếp cho mọi công dân quyền có công ăn việc làm, mà không kiểm soát toàn bộ sinh hoạt kinh tế…). Thế nhưng, như thế không có nghĩa là nhà nước không có một thẩm quyền nào trong khu vực này như chủ trương của những người cho rằng tuyệt đối không nên có những luật lệ trong lãnh vực kinh tế. Ngược lại, nhà nước có bổn phẩn nâng đỡ hoạt động của các xí nghiệp bằng cách tạo những điều kiện giúp thêm việc làm, bằng cách thúc đẩy các hoạt động ấy trong trường hợp còn yếu kém hoặc nâng đỡ trong những thời kỳ khủng hoảng.

Nhà nước cũng có quyền can thiệp khi những hoàn cảnh đặc thù do tình trạng độc quyền gây ra, có thể làm trì hoãn hoặc làm cản trở việc phát triển. Nhưng ngoài vai trò điều hợp và hướng dẫn việc phát triển trong những hoàn cảnh đặc biệt, nhà nước còn có thể thi hành những chức năng bổ sung, trong những hoàn cảnh bất thường khi những nhóm xã hội hoặc các tổ hợp quá yếu hoặc đang trong thời kỳ thành lập không đạt tới tầm vóc xứng với nhiệm vụ của mình. Những can thiệp bổ sung này, được biện minh bằng những lý do cần hành động khẩn cấp vì công ích, cần phải giới hạn về thời gian, càng ngắn càng tốt, để không tước đi thẩm quyền của những nhóm hay những xí nghiệp ấy và để đừng mở rộng quá đáng phạm vi can thiệp của nhà nước, có thể làm phương hại đến quyền tự do kinh tế hoặc tự do dân sự.

Những năm gần đây, ta đã thấy những can thiệp này mở rộng phạm vi một cách đáng kể, đến độ tạo ra một kiểu nhà nước mới gọi là “nhà nước vì sung túc” (L”État du bien être). Chuyện này đã diễn ra tại một số quốc gia nhằm đáp ứng nhiều nhu cầu một cách tốt hơn, bằng cách sửa chữa những hình thức nghèo khổ và thiếu thốn, không xứng đáng với ngôi vị con người. Tuy nhiên đặc biệt trong những năm gần đây, đã có nhiều thái quá và lạm dụng khiến người ta phê bình nghiêm khắc nhà nước vì sung túc mà người ta gọi là “nhà nước bao cấp” (L”État de l”assistance). Tình trạng rối loạn chức năng và những sai lầm về cứu trợ xã hội xuất phát từ một quan niệm không thích hợp về những bổn phận riêng của nhà nước. Trong bối cảnh này cần tôn trọng nguyên tắc bổ trợ: Một đoàn thể cấp trên không được can thiệp vào sinh hoạt nội bộ của một đoàn thể cấp dưới, bằng cách lấy mất những thẩm quyền của họ; đúng hơn, phải nâng đỡ đoàn thể đó khi cần và giúp đoàn thể đó phối hợp hoạt động của mình với hoạt động của những thành phần khác tạo nên xã hội, nhằm phục vụ công ích[100].

Khi can thiệp trực tiếp và lấy mất trách nhiệm của xã hội, nhà nước bao cấp làm hao tổn năng lực của con người, làm cho bộ máy công cộng ra cồng kềnh do cách lý luận quan liêu hơn là do quan tâm phục vụ quần chúng, cũng như làm cho chi phí gia tăng kinh khủng. Thực vậy, có lẽ chính những người đang gần gũi với nhu cầu hơn hoặc những người biết tiếp cận với nhu cầu phải là người biết rõ nhu cầu hơn và chính họ phải là những người có khả năng đáp ứng hơn. Cần thêm là thường thường một số loại nhu cầu đòi một sự đáp ứng không chỉ trên lãnh vực vật chất, nhưng là sự đáp ứng biết nhận ra những đòi hỏi thâm sâu hơn của con người. Ta cũng cần nghĩ đến điều kiện của những người tị nạn, di cư, những người già lão hoặc bệnh tật và tất cả những người đang ở trong hoàn cảnh cần được giúp đỡ, ví dụ những người nghiện ma túy: đó là tất cả những người chỉ có thể được giúp đỡ một cách hữu hiệu nhờ những người không những chỉ mang lại cho họ sự chăm sóc cần thiết, nhưng còn cả sự nâng đỡ chân thành.

49.   Tình liên đới và bác ái

Trong lãnh vực này, trung thành với lệnh truyền của Chúa Kitô, Đấng sáng lập Hội Thánh, Hội Thánh luôn luôn có mặt qua những công việc nhằm cống hiến cho những người đang cần được nâng đỡ về vật chất, những không làm cho họ cảm thấy nhục nhã, cũng như không coi họ chỉ là đối tượng cần được giúp đỡ, nhưng là giúp họ thoát ra khỏi những điều kiện bấp bênh, bằng cách cũng cố phẩm giá con người của họ. Trong tâm tình sốt sắng tạ ơn Thiên Chúa, cần phải ghi nhận là đức bác ái tích cực không bao giờ ngừng hoạt động trong Hội Thánh, thậm chí ngày nay, đức bác ái còn gia tăng một cách đáng khích lệ qua nhiều hình thức. Về mặt này, cần được nhắc đến phong trào tự nguyện, được Hội Thánh khích lệ và cổ võ bằng cách kêu gọi mọi người cộng tác để nâng đỡ và khích lệ trong những bước đầu của phong trào này.

Ngày nay, muốn vượt qua não trạng vị kỷ đang lan tràn, cần có sự dấn thân một cách cụ thể trong tình liên đới và bác ái, bắt đầu từ trong gia đình, qua việc vợ chồng biết nâng đỡ nhau, rồi các thế hệ biết lãnh lấy trách nhiệm đối với nhau. Chính vì thế, gia đình cũng được định nghĩa là cộng đoàn lao động và liên đới. Tuy nhiên, có khi gia đình quyết định đáp ứng trọn vẹn ơn gọi của mình, nhưng lại không tìm được sự nâng đỡ cần thiết về phía nhà nước và thiếu những nguồn lợi cần thiết. Vì thế, phải cấp thời cổ võ không phải chỉ những chính sách về gia đình, nhưng còn cả những chính sách về xã hội mà đối tượng chính yếu là gia đình, nhưng chính sách giúp cho gia đình có những nguồn lợi chính đáng và những phương thế nâng đỡ hữu hiệu cả trong việc giáo dục con cái lẫn việc chăm sóc người già cả, để họ không phải xa lìa tổ ấm gia đình, đồng thời tăng cường những mối liên kết giữa thế hệ trước với thế hệ sau[101].

Ngoài gia đình ra, còn có những nhóm xã hội trung gian khác đóng vai trò hàng đầu và vận dụng những hệ thống liên đới đặc biệt. Những nhóm này đã đạt được sự trưởng thành của những cộng đoàn đích thực và họ củng cố hệ thống xã hội, tránh cho xã hội khỏi rơi vào tình trạng quần chúng vô ngã và vô danh, là những điều thật đáng tiếc hay xảy ra trong xã hội hiện đại. Chính nhờ sự giao thoa của bao mối quan hệ mà con người sống và “nhân cách” xã hội tiến triển. Ngày nay, cá nhân thường bị đè bẹp giữa hai cực là nhà nước và thị trường. Thực vậy, đôi khi dường như họ chỉ hiện hữu như là người sản xuất và người tiêu thụ hàng hóa, hoặc như người bị nhà nước cai trị, trong khi đó người ta quên đi rằng đời sống xã hội không nhằm mục đích nhà nước hay thị trường, bởi vì đời sống xã hội tự nó có một giá trị duy nhất mà cả nhà nước lẫn thị trường phải phục vụ. Con người tiên vàn là một hữu thể tìm kiếm chân lý và ra sức sống theo chân lý đó, ra sức đào sâu chân lý bằng một cuộc đối thoại không ngừng giữa những thế hệ đã qua và những thế hệ đang tới[102].

50.   Di sản văn hóa

Văn hóa dân tộc có đặc tính là tìm kiếm chân lý một cách cởi mở; Chân lý này được đổi mới qua mỗi thế hệ. Thực vậy, gia sản gồm những giá trị được lưu truyền và thủ đắc, luôn luôn bị những người trẻ đặt thành vấn đề. Đặt vấn đề không đương nhiên là phá hủy hay tiên thiên từ chối, nhưng đặt vấn đề có nghĩa là đưa ra thử nghiệm trong đời sống riêng của mình. Thông qua cách nghiệm chứng sinh động như thế, các giá trị ấy trở nên sống động hơn, hiện tại hơn và cá nhân hơn, bằng cách phân biệt trong truyền thống cái gì có giá trị, cái gì giả dối hoặc sai lầm, hay thay thế những hình thức già nua cũ kỹ bằng những hình thức thích hợp với thời đại hơn.

Về vấn đề này, cần nhắc lại rằng việc loan bao Tin mừng phải đi sâu vào văn hóa các dân tộc, bằng cách củng cố nỗ lực tìm kiếm chân lý nơi nền văn hóa đó và giúp nền văn hóa đó hoàn tất nỗ lực thanh lọc và đi vào chiều sâu[103]. Tuy nhiên, khi một nền văn hóa tự đóng kín và tìm cách tồn tại với những cách sống cũ kỹ, từ chối mọi thứ thay đổi và đối chiếu trong vấn đề chân lý về con người, thì nền văn hóa ấy trở nên cằn cỗi và đang trên đà suy sụp.

51.   Phần đóng góp của Giáo hội trong vấn đề văn hóa

Mọi hoạt động của con người đều diễn ra trong một nền văn hóa và phản ứng đối chiếu đối với nền văn hóa đó. Để kiến tạo một nền văn hóa thích hợp cần mỗi người phải tham gia, phải phát triển sức sáng tạo trí tuệ và sự hiểu biết về thế giới và con người. Ngoài ra, họ còn phải đầu tư vào đó những khả năng tự chủ, hy sinh cá nhân, biết liên đới và sẵn sàng cổ võ công ích. Để thực hiện điều đó, nhiệm vụ hàng đầu và quan trọng nhất được thực hiện nơi tâm hồn con người, và cách con người dấn thân để kiến tạo tương lai của mình lệ thuộc vào quan niệm họ có về chính họ và về định mệnh của họ. Giáo hội góp phần đặc biệt và quyết định vào văn hóa đích thực chính trên bình diện này. Giáo hội cổ võ phẩm tính của những cách thế hành động nào của con người góp phần làm thành hình một nền văn hóa xây dựng hòa bình, ngược với những mô hình văn hóa khiến cho con người mất hút trong đám đông, coi thường vai trò sáng kiến và tự do của họ, cũng như chỉ xác định sự cao cả của con người nơi những kỹ thuật tạo ra xung đột và chiến tranh. Giáo hội thi hành công tác phục vụ đó bằng cách rao giảng chân lý về việc sáng tạo thế giới, thế giới mà Thiên Chúa đã đặt vào tay con người để con người làm cho nó phong phú và kiện toàn nó nhờ sức lao động của mình; Giáo hội cũng thi hành công tác phục vụ đó bằng cách rao giảng chân lý về ơn cứu chuộc, nhờ đó Con Thiên Chúa đã cứu thoát mọi người và đồng thời nối kết họ với nhau, làm cho họ có trách nhiệm đối với nhau. Kinh Thánh thường xuyên dạy chúng ta về việc tích cực dấn thân phục vụ tha nhân và đòi hỏi mọi người phải có một thái độ đồng trách nhiệm.

Đòi hỏi này không dừng lại ở giới hạn gia đình, thậm chí dân tộc hay quốc gia, nhưng nó liên quan một cách tiệm tiến đến toàn thể nhân loại, đến độ không ai được coi mình như người xa lạ hoặc dửng dưng đối với số phận của một phần tử khác trong gia đình nhân loại. Không một người nào có thể quả quyết rằng mình không chịu trách nhiệm về số phận của người anh em mình (x. St 4,9; Lc 10,29-37; Mt 25,31-46) ! Thái độ ân cần và tận tâm lo lắng cho người thân cận vào lúc họ đang cần – thái độ này ngày nay được dễ dàng hơn nhờ có những phương tiện truyền thông xã hội mới mẻ giúp cho con người xích lại gần nhau hơn – có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc tìm kiếm những phương thức giải quyết các xung đột quốc tế mà không cần phải dùng đến chiến tranh. Chẳng khó khăn gì khi phải quả quyết rằng sức mạnh khủng khiếp của những phương tiện hủy diệt – ngay cả những nước nhỏ hoặc trung bình cũng có – cũng như những quan hệ ngày càng chặt chẽ giữa các dân tộc trên toàn trái đất làm cho sự hạn chế những hậu quả của một cuộc xung đột trở nên rất khó khăn hoặc thực tế không thể được.

52.   Phát triển và phản chiến

Đức Benedicto XV và các Đấng kế vị đã hiểu rõ nguy cơ này[104], và chính bản thân tôi, nhân cuộc chiến tranh thương đau vừa xảy ra tại vùng vịnh Péc xích, tôi đã lặp lại tiếng kêu: “Đừng bao giờ còn chiến tranh nữa!” Đừng, đừng bao giờ còn chiến tranh nữa, một chiến tranh hủy diệt mạng sống của những người vô tội, một chiến tranh đầy chém giết, và đảo lộn cả cuộc đời của những người chém giết, một chiến tranh để lại đàng sau một chuỗi những hận thù và ghen ghét khiến cho càng khó tìm ra một giải pháp đúng đắn cho chính những vấn đề đã làm cho chiến tranh bùng nổ! Cũng như cuối cùng đã đến lúc bên trong các nhà nước, hệ thống bảo thủ cá nhân và những việc cấp bách bây giờ là phải thực hiện một bước tiến tương tự trong cộng đồng quốc tế. Đàng khác, không nên quên rằng: tận gốc rễ của chiến tranh, thường có những động lực thực sự và trầm trọng, đó là những bất cộng, sự tước đoạt những khát vọng hợp pháp, sự bần cùng và khai thác đám người tuyệt vọng không còn thấy khả năng thực sự có thể cải thiện điều kiện sống của mình nhờ những phương thế ôn hòa. Chính vì thế, tên gọi khác của hòa bình là phát triển[105]. Cũng như phải có một trách nhiệm tập thể để tránh chiến tranh, thì cũng cần có một trách nhiệm tập thể để cổ võ việc phát triển. Trên bình diện nội bộ của mọi xã hội, đó là điều có thể và là một bổn phận phải xây dựng một nền kinh tế xã hội nhằm phục vụ công ích; cũng cần có những can thiệp thích hợp để thực hiện điều đó trên bình diễn quốc tế. Muốn được như vậy cần phải có một cố gắng to lớn để tạo sự cảm thông và hiểu biết lẫn nhau và để làm cho lương tâm thêm bén nhạy. Đó chính là nền văn hóa đáng mơ ước vì nó gia tăng sự tin tưởng đối với những khả năng nhân bản nơi người nghèo, và như thế là tín nhiệm vào khả năng họ có thể cải thiện điều kiện sống nhờ làm việc, hoặc có thể đóng góp tích cực vào sự thịnh vượng kinh tế. Nhưng để đạt tới đó, người nghèo – cá nhân hay quốc gia – cần phải được cung cấp những điều kiện sống thuận lợi có thể đạt được một cách sụ thể. Sáng tạo ra những điều kiện ấy, đó chính là mục đích của cuộc bàn thảo quốc tế nhằm cổ võ phát triển; điều này giả thiết ngay cả phải hy sinh những ưu thế về lợi nhuận và quyền lực, là những điều mà các nền kinh tế phát triển nhất vẫn tự hào[106].

Điều đó có thể đòi phải có những thay đổi quan trọng trong những lối sống đã ổn định, hầu hạn chế những hoang phí tài nguyên thiên nhiên và năng lực con người; để mọi dân tộc và mọi người trên trái đất có thể sử dụng những tài nguyên và năng lực đó theo mức độ thích đáng. Thêm vào đó, cũng cần phải khai thác những tài nguyên mới về vật chất và tinh thần, kết quả của sức lao động và của văn hóa các dân tộc ngày nay đang bị gạt ra ngoài lề, như thế gia đình các dân tộc mới đạt tới chỗ phong phú toàn diện của con người.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG VI

 

CON NGƯỜI LÀ CON ĐƯỜNG CỦA GIÁO HỘI

53.   Giá trị độc đáo của mỗi con người

Đứng trước nỗi khốn cùng của giai cấp vô sản, Đức Lêô XIII đã viết: “Chúng tôi đề cập đến vấn đề này với niềm xác tín và với tất cả quyền hạn của chúng tôi (…), chúng tôi im lặng thì nhiều người sẽ xem chúng tôi là thờ ơ với bổn phận của mình”[107]. Suốt một trăm năm qua, Giáo hội đã nhiều lần bày tỏ tư tưởng của mình trong khi theo sát với đà tiến không ngừng vấn đề xã hội. Và Giáo hội làm như thế không phải là để tìm lại những đặc quyền trong quá khứ hoặc để áp đặt quan điểm của mình. Mục tiêu duy nhất của Giáo hội là thể hiện mối quan tâm và trách nhiệm của mình đối với con người đã được chính Đức Kitô uỷ thác cho: con người đó, như Công đồng Vatican II nhắc lại, là tạo vật duy nhất trên trái đất mà Thiên Chúa đã muốn dựng nên vì chính họ và Người đã có dự định cho họ được dự phần vào ơn cứu độ vĩnh cửu. Đó không phải là con người “trừu tượng” nhưng là con người thực tế, con người “cụ thể”, “mang lịch sử tính”. Đó là vấn đề “mỗi con người”, vì mỗi con người đều nằm trong mầu nhiệm cứu chuộc, và qua mầu nhiệm này, Đức Kitô đã mãi mãi liên kết với từng người[108]. Do đó Giáo hội không thể từ bỏ con người và “con người” là con đường của đầu tiên Giáo hội phải đi qua để chu toàn sứ vụ của mình (…), con đường này đã được chính Đức Kitô vạch ra, đó là con đường nhất thiết đi qua mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Chuộc[109].

Bài này đã được xem 785 lần!

Pages ( 10 of 12 ): <1 ... 89 10 1112>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]