Đó là nguyên tắc và là nguyên tắc độc nhất gợi lên giáo thuyết của Giáo hội về xã hội. Nếu Giáo hội đã dần dần triển khai giáo thuyết đó một cách có hệ thống, đặc biệt kể từ thời điểm mà chúng ta đang kỷ niệm, chính là do học thuyết phong phú đó của Giáo hội đã nhắm đến con người trong thực tế cụ thể của họ là tội lỗi và công chính.
- Đặc biệt ngày nay, giáo thuyết về xã hội quan tâm đến con người xét như được hội nhập vào một hệ thống phức tạp của những tương quan giữa các xã hội hiện đại. Những khoa nhân văn và triết học giúp hiểu rõ con người được đặt ở trung tâm của xã hội và giúp họ hiểu rõ hơn mình là một hữu thể mang tính xã hội. Nhưng chỉ có niềm tin mới mạc khải cho họ trọn vẹn căn tính đích thực của mình, và chính niềm tin mới là khởi điểm của giáo thuyết của Giáo hội về xã hội, và Giáo hội dựa vào những đóng góp của các khoa học và triết học để trợ giúp con người trên
đường cứu độ.
Thông điệp RN có thể coi như một đóng góp quan trọng vào việc phân tích kinh tế, xã hội của cuối thế kỷ XIX nhưng sở dĩ thông điệp này có được giá trị đặc biệt là vì nó là một văn kiện của huấn quyền đi đúng với sứ vụ rao giảng tin mừng của Giáo hội đồng thời với nhiều văn kiện khác cùng loại. Do đó có thể suy ra rằng giáo thuyết về xã hội tự nó có giá trị như một công cụ để loan báo tin mừng: xét như thế, giáo thuyết này đã loan báo cho mọi người về Thiên Chúa và mầu nhiệm cứu độ nơi Đức Kitô, và cũng vì thế nó mạc khải cho con người về chính mình. Dưới ánh sáng đó và chỉ dưới ánh sáng đó, giáo thuyết ấy quan tâm đến các vấn đề khác như: các quyền con người nơi mỗi cá nhân và đặc biệt nơi “giai cấp vô sản”, gia đình và việc giáo dục, những nghĩa vụ của nhà nước, việc tổ chức xã hội về mặt quốc gia và quốc tế, đời sống chính trị, văn hóa, chiến tranh và hoà bình, việc tôn trọng sự sống từ khi thụ thai cho tới lúc chết.
54. Thiên Chúa giải thích lý do hiện hữu của con người
Giáo hội nhận được từ mạc khải của Thiên Chúa “ý nghĩa về con người”. “Để nhận biết con người, con người thực, con người trọn vẹn, phải nhận biết Thiên Chúa”, như Đức Phaolô VI đã nói, và ngay sau đó ngài trưng dẫn Thánh nữ Catarina Xiena, vị thánh này đã diễn tả cùng một ý tưởng đó dưới hình thức lời cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa vĩnh cửu, trong bản tính của Chúa, con nhận biết bản tính của con”[110].
Vì thế, trong thực tế, khoa nhân học kitô giáo là một chương trong thần học, và, cũng vì thế, giáo thuyết của Giáo hội về xã hội, khi quan tâm lưu ý đến con người và đến cách sống của họ trong thế giới, “thuộc về (…) lãnh vực thần học và đặc biệt thần học luân lý”[111]. Như thế, chiều kích thần học thật cần thiết vừa để giải thích cũng như để giải quyết những vấn đề hiện nay trong việc chung sống của con người. Thật cũng nên lưu ý rằng điều đó có giá trị vừa cho giải pháp “vô thần”, một giải pháp đã loại trừ một trong những thành phần nền tảng của con người, đó là chiều kích thiêng liêng, và vừa cho những giải pháp gợi lên do chủ trương buông thả và tinh thần hưởng thụ, đây là những giải pháp viện nhiều cớ khác nhau để tìm cách thuyết phục con người về sự độc lập của họ đối với Thiên Chúa và mọi luật lệ, trong khi giam hãm họ trong một thứ ích kỷ rốt cuộc chỉ nguy hại cho chính họ và cho người khác.
Khi loan báo cho con người ơn cứu độ của Thiên Chúa, khi bày tỏ cho con người sự sống của Thiên Chúa và thông ban sự sống đó cho họ qua các nhiệm tích, khi hướng dẫn đời sống họ bằng các giới luật mến Chúa, yêu người, Giáo hội đóng góp vào việc làm phong phú phẩm giá của họ. Nhưng cũng như Giáo hội không bao giờ có thể hủy bỏ sứ mạng tôn giáo và siêu việt của mình đối với con người, thì cũng thế, Giáo hội nhận thấy rằng công cuộc của mình hôm nay đang gặp phải những khó khăn và những trở ngại đặc biệt. Bởi đó Giáo hội dấn thân với những nỗ lực và những phương thế luôn luôn mới mẻ cho việc Phúc âm hóa nhằm bảo đảm việc thăng tiến toàn thể con người. Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Giáo hội vẫn luôn là “dấu chỉ và bảo đảm tính cách siêu việt của ngôi vị con người”[112], cũng như Giáo hội đã từng luôn cố gắng làm như thế ngay từ buổi đầu trong khi đồng hành với con người suốt chiều dài lịch sử. Thông điệp RN là một dấu chỉ đầy ý nghĩa về việc đó.
55. Hiểu biết giáo thuyết của Giáo hội về xã hội
Trong dịp kỷ niệm 100 năm thông điệp đó, tôi muốn cám ơn tất cả những ai đã có công nghiên cứu, đào sâu và truyền bá giáo thuyết của kitô giáo về xã hội. Để được như vậy, không thể thiếu sự cộng tác của các Giáo hội địa phương và tôi mong ước rằng việc kỷ niệm 100 năm này phải là cơ hội cho một đà tiến mới để nghiên cứu, truyền bá và áp dụng giáo thuyết này trong nhiều lãnh vực.
Đặc biệt tôi mong ước rằng người ta phổ biến và áp dụng giáo thuyết ấy trong những quốc gia mà, sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực, dường như người ta hoàn toàn mất định hướng khi đứng trước nhiệm vụ tái thiết. Về phần mình chính các nước Tây phương cũng đang gặp phải nguy cơ là coi sự sụp đổ đó như cuộc chiến thắng một chiều của hệ thống kinh tế của mình và vì thế, không quan tâm ngay đến những chỉnh đốn cần thiết trong hệ thống đó. Còn đối với thế giới thứ ba, hơn bao giờ hết, họ đang gặp phải những hoàn cảnh thê thảm của sự kém phát triển ngày càng gia tăng.
Đức Lêô XIII sau khi đã đưa ra những nguyên tắc và những chỉ dẫn để giải quyết vấn đề thợ thuyền, đã đưa ra khẩu hiệu: “Ước chi mỗi người đừng trì hoãn việc góp phần mình kẻo vì chậm trễ mà sự dữ vốn rất trầm trọng lại trở thành bất trị”. Và ngài thêm: “Về phần Giáo hội, Giáo hội sẽ không bao giờ thiếu sót bổn phận mình bằng bất cứ cách nào”[113].
56. Sứ điệp của Giáo hội về xã hội
Đối với Giáo hội, sứ điệp Tin mừng về xã hội không được coi là một lý thuyết nhưng trước hết phải coi là một nền tảng và nguồn động lực để hoạt động. Được thôi thúc bởi sứ điệp đó, một số kitô hữu tiên khởi đã chia sẻ của cải mình cho những người nghèo, điều đó cho thấy rằng dù nguồn gốc xã hội khác nhau nhưng việc chung sống hài hòa và liên đới là có thể được. Trải qua các thế kỷ, nhờ sức mạnh của Tin mừng, các đan sĩ đã khai thác đất đai, các tu sĩ nam cũng như nữ đã thiết lập những bệnh viện và những viện tế bần, những hội từ thiện, cũng như những người nam nữ thuộc đủ mọi hoàn cảnh sống đã dấn thân trợ giúp những người túng thiếu và những người bị gạt ra ngoài xã hội, với niềm xác tín rằng lời của Đức Kitô “những gì các ngươi đã làm làm cho một trong các anh em hèn mọn nhất này của ta, là các ngươi đã làm cho chính mình Ta” (Mt 25,40) không thể chỉ là một lời cầu chúc đạo đức suông nhưng phải trở thành một sự dấn thân sụ thể trong cuộc sống.
Hơn bao giờ hết, Giáo hội nhận thức rằng sứ điệp về xã hội sẽ phải trở nên khả tín qua chứng tá bằng việc làm hơn là do sự mạch lạc và hợp lý nội tại của sứ điệp đó. Từ niềm xác tín ấy dẫn đến sự lựa chọn ưu tiên về phía người nghèo, sự lựa chọn này không bao giờ mang tính cách loại trừ và phân biệt đối xử với những nhóm người khác. Thực sự, sự lựa chọn này không chỉ giới hạn vào nghèo đói về vật chất. Ta biết rõ ràng, nhất là trong xã hội ngày nay, có những hình thức nghèo đói, về mặt kinh tế cũng như về mặt văn hóa và tôn giáo. Tình yêu của Giáo hội đối với người nghèo đói là điểm chính yếu và là thành phần trong truyền thống bền vững của Giáo hội, đã thôi thúc Giáo hội quay về với thế giới mà trong đó, mặc dù có những tiến bộ về mặt kỹ thuật và kinh tế, sự nghèo đói vẫn đe dọa trở nên rất trầm trọng. Tại những nước Tây phương, nơi có nhiều hình thức nghèo đói của những người bị gạt ra ngoài xã hội, những người tuổi tác và những bệnh nhân, những nạn nhân của nền văn minh tiêu thụ và nhất là sự nghèo đói của rất nhiều người tị nạn và di dân; tại những nước đang phát triển, người ta thấy đang manh nha những khủng hoảng sẽ thê thảm nếu người ta không kịp thời có những biện pháp phối trí trên bình diện quốc tế.
57. Cổ võ cho công lý
Tình yêu thương đối với con người, và trước hết đối với người nghèo, nơi họ, Giáo hội nhìn thấy Đức Kitô, được diễn tả cụ thể bằng việc cổ võ công lý. Việc cổ võ này sẽ không bao giờ được thực hiện nếu người ta không coi người đang túng thiếu, người xin sự nâng đỡ để sống, như người quấy rầy hoặc như gánh nặng, nhưng coi đó là lời mời gọi để làm việc nghĩa, một cơ may để nên phong phú hơn. Chỉ có ý thức đó mới đem lại cam đảm để dám đương đầu với những nguy cơ và những biến đổi trong mọi nỗ lực đích thực nhằm trợ giúp người. Quả thực, không phải chỉ là việc cho đi những thứ dư thừa nhưng là mang lại sự trợ giúp sao cho toàn bộ những dân tộc bị gạt ra ngoài cũng như bị loại trừ được hội nhập vào chu kỳ phát triển về mặt kinh tế và nhân bản. Điều này có thể thực hiện được, không những do của cải dư thừa được sản xuất dồi dào trên thế giới, nhưng nhất là bằng cách người ta đổi lối sống, thay đổi những kiểu thức sản xuất và tiêu thụ, những cơ cấu quyền bính đã được thiết lập đang điều hành các xã hội hiện nay. Cũng không phải là phá hủy những công cụ tổ chức xã hội đang chứng tỏ có hiệu năng, nhưng chính là hướng những công cụ ấy theo một quan niệm chính đáng về ích lợi chung của toàn thể gia đình nhân loại. Ngày nay đang diễn ra cái gọi là “hoàn cầu hóa nền kinh tế”, đó là một hiện tượng không thể chối bỏ được, vì nó có thể tạo nên những cơ hội đặc biệt để sống tốt đẹp hơn. Nhưng người ta luôn cảm thấy rõ rệt hơn sự cần thiết là kèm với việc quốc tế hóa về mặt kinh tế ngày cang gia tăng, cần có những cơ quan quốc tế hữu hiệu nhằm kiểm soát và điều chỉnh để hướng dẫn chính nền kinh tế đến công ích, điều mà không một quốc gia nào, cho dù là thế lực nhất trên địa cầu, có khả năng thực hiện được. Để đạt được kết quả như thế, phải gia tăng sự phối hợp giữa các quốc gia lớn. Và, trong tổ chức chuyên biệt, những phúc lợi của đại gia đình nhân loại phải được lưu ý một cách công bình. Đồng thời trong khi ước lượng những hậu quả do những quyết định của mình, các quốc gia và những cơ quan đó phải luôn luôn quan tâm đúng mức đến các dân tộc và những quốc gia không mấy quan trọng trên thị trường quốc tế nhưng lại đang phải gánh chịu những thiếu thốn cơ cực nhất, thê lương nhất và cần được nâng đỡ nhiều hơn để phát triển. Chắc chắn rằng còn nhiều việc phải làm trong lãnh vực này.
58. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử
Để công lý được thể hiện và để những mưu tính của con người nhằm thực thi công lý đạt được thành quả, thì nhất thiết cần có ân sủng của Thiên Chúa. Nhờ ân sủng, cùng với sự cộng tác của tự do con người, sự hiện diện mầu nhiệm của Thiên Chúa Đấng quan phòng, sẽ được thực hiện trong lịch sử.
Sự đổi mới mà người ta cảm nghiệm được nhờ việc theo Đức Kitô phải được thông truyền cho những người khác trong thực tế cụ thể của những khó khăn của họ, của những cuộc đấu tranh, những vấn đề và những thách đố của họ, sao cho tất cả những điều đó được soi chiếu và trở nên nhân bản hơn nhờ ánh sáng đức tin. Quả thực, đức tin không chỉ giúp tìm ra những giải pháp, mà còn giúp chịu đựng một cách nhân bản, những hoàn cảnh khổ đau, để trong những hoàn cảnh đó, con người không bị băng hoại và không quên đi phẩm giá cũng như ơn gọi của mình.
Ngoài ra, giáo thuyết về xã hội còn có một liên quan hệ trọng với các môn học khác (interdisciplinaire). Để đưa chân lý độc nhất liên quan đến con người vào trong những bối cảnh xã hội, kinh tế và chính trị khác nhau và biến đổi liên tục, giáo thuyết ấy phải đối thoại với những môn học khác nhau chuyên về con người. Giáo thuyết đó tiếp thu những hỗ trợ của những môn học ấy và giúp định hướng những môn học ấy, trong một nhãn giới rộng lớn hơn, nhằm phục vụ con người, được nhận biết và yêu mến trong sự viên mãn của ơn gọi mình.
Bên cạnh chiều kích liên hệ hỗ tương này, cũng cần nhắc đến chiều kích thực dụng và theo một nghĩa nào đó, là chiều kích thực nghiệm của giáo thuyết này. Học thuyết xã hội của Giáo hội hình thành do sự gặp gỡ giữa đời sống và lương tri kitô giáo với những hoàn cảnh của thế giới, và biểu lộ trong những nỗ lực được thực hiện bởi những cá nhân, những gia đình, những chuyên gia về văn hóa và xã hội, những chính trị gia và những chính khách nhằm đem lại cho giáo thuyết ấy mô hình cũng như việc áp dụng cụ thể vào lịch sử.
59. Sự hợp tác của mọi người thiện chí
Khi nêu lên những nguyên tắc giải quyết vấn đề thợ thuyền, Đức Lêô XIII viết: “Một vấn đề quan trọng như thế này đòi hỏi những hoạt động và những nỗ lực của những người khác”[114]. Ngài xác tín rằng, những vấn đề quan trọng gây nên do xã hội công nghiệp chỉ có thể được giải quyết bằng sự hợp tác mọi sức lực. Khẳng định đó trở thành một yếu tố vĩnh cửu trong giáo thuyết của Giáo hội về xã hội, và điều đó đã giải thích rõ ràng lý do tại sao Đức Gioan XXIII đã gửi thông điệp của Ngài về hòa bình cho “mọi người thiện chí”.
Tuy nhiên, Đức Lêô XIII buồn phiền nhận thấy rằng những ý thức hệ thời đại Ngài, đặc biệt là chủ thuyết tự do và chủ nghĩa Mac-xit đã từ chối sự hợp tác. Kể từ đó đã có biết bao nhiêu điều thay đổi nhất là những năm gần đây. Ngày nay thế giới ngày càng ý thức hơn việc giải quyết những vấn đề nghiêm trọng mang tầm mức quốc gia cũng như quốc tế, không phải chỉ là vấn đề về sản xuất kinh tế hay tổ chức pháp chế hoặc xã hội nhưng đòi hỏi chấp nhận những giá trị nhất định về đạo đức và tôn giáo, cũng như phải có một sự thay đổi về não trạng, về lối sống và về những cơ chế. Giáo hội đặc biệt cảm thấy bổn phận phải đóng góp vào công việc đó, và như tôi đã viết trong thông điệp SRS, có hy vọng hợp lý rằng ngay cả đông đảo những người không tuyên xưng tôn giáo nào vẫn có thể đóng góp để đem lại cho vấn đề xã hội một nền tảng đạo đức cần thiết[115].
Cũng trong văn kiện đó, tôi đã kêu mời Giáo hội kitô giáo và tất cả những tôn giáo lớn trên thế giới, hãy đồng tâm làm chứng cho những xác tín chung về phẩm giá của con người được Thiên Chúa tạo dựng[116]. Quả thực, tôi xác tín rằng hiện nay cũng như trong tương lai những tôn giáo sẽ có vai trò quan trọng nổi bật hơn trong việc duy trì hòa bình và việc thiết lập một xã hội xứng với con người.
Đàng khác, đòi hỏi tất cả mọi người thiện chí hãy sẵn sàng đối thoại và cộng tác, và điều này đặc biệt đối với những người cũng như những nhóm có trách nhiệm riêng trong những lãnh vực chính trị, kinh tế và xã hội, dù ở tầm mức quốc gia hay quốc tế.
60. Những thách đố mới
Buổi đầu của xã hội công nghiệp, chính sự xuất hiện của một thứ “ách gần như nô lệ” đã đòi buộc vị tiền nhiệm của tôi phải lên tiếng để bênh vực con người. Giáo hội vẫn trung thành với nhiệm vụ đó suốt 100 năm qua. Quả thực, Giáo hội đã can thiệp vào thời kỳ hỗn độn vì đấu tranh giai cấp, sau thế chiến thứ I, để bênh vực quyền con người khỏi bị bóc lột về kinh tế và ách thống trị của các hệ thống cực quyền. Sau thế chiến thứ II, Giáo hội tập trung những sứ điệp về xã hội vào phẩm giá của con người bằng việc nhấn mạnh rằng của cải vật chất được dành cho mọi người, về một trật tự xã hội không còn áp bức và dựa trên tinh thần hợp tác và liên đới. Giáo hội không ngừng nhắc lại rằng con người và xã hội không chỉ cần những của cải này, nhưng còn cần những giá trị thiêng liêng và tôn giáo. Ngoài ra, Giáo hội vì ý thức rằng có rất nhiều người không được sống trong cảnh sung túc của thế giới Tây phương, họ đang phải chịu những nỗi khốn cùng của những xứ đang trên đà phát triển và ở trong một tình trạng vẫn còn là “dưới ách gần như nô lệ” nên đã cảm thấy và hiện đang cảm thấy buộc phải tố cáo thực trạng này hết sức minh bạch và thẳng thắn, mặc dù Giáo hội biết rằng những lời kêu gọi của mình không phải luôn luôn được mọi người sẵn sàng chấp nhận.
Bài này đã được xem 789 lần!