THÔNG ĐIỆP CENTESIMUS ANNUS (BÁCH CHU NIÊN)

Chính vì ý thức sứ vụ kế vị Thánh Phêrô mà Đức Lêô XIII đã quyết định lên tiếng, và cũng chính ý thức đó ngày hôm nay đang thúc đẩy kẻ kế vị Người. Cũng như Người và các Đức Giáo hoàng trước và sau Người, tôi cảm hứng từ hình ảnh trong Tin Mừng về “người kinh sư trở nên môn sinh Nước Trời” mà Đức Kitô ví “như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho mình cả cái cũ lẫn cái mới” (Mt 13,52). Kho tàng đó là dòng chảy cuồn cuộn của truyền thống Giáo hội chứa đựng những “điều cũ” luôn được đón nhận và truyền lại, nhờ đó hiểu được những “điều mới”, trong đó đang diễn ra đời sống của Giáo hội và của thế giới.

Những điều mới này khi hội nhập vào truyền thống, trở thành kỳ cựu và cung cấp chất liệu và cơ hội để phong phú hóa truyền thống cũng như phong phú hóa đời sống đức tin. Góp phần vào đó, còn có hoạt động phong phú của hàng triệu triệu con người được khích lệ bởi giáo huấn của Giáo hội về vấn đề xã hội, đã cố gắng cảm hứng từ giáo huấn đó để dấn thân vào thế giới. Khi hành động một cách cá nhân, hay qui tụ bằng nhiều cách khác nhau thành những nhóm, hiệp hội và tổ chức, họ đã làm thành một phong trào lớn bênh vực con người và bảo vệ phẩm giá của con người. Qua những thăng trầm của lịch sử, điều đó đã góp phần làm nên một xã hội công bằng hơn, hay ít là chặn đứng và hạn chế những bất công.

Thông điệp này nhằm làm sáng tỏ sự phong phú của các nguyên tắc mà Đức Lêô XIII đã diễn tả, những nguyên tắc này thuộc về gia sản đạo lý của Giáo hội, và theo danh nghĩa đó, có thế giá của quyền giáo huấn. Nhưng mặt khác, ưu tư mục vụ cũng khiến tôi đưa ra việc phân tích mấy sự kiện lịch sử gần đây. Không cần phải nhấn mạnh rằng việc cẩn thận nhận định những nhu cầu mới của sứ vụ loan báo Tin mừng là trách nhiệm của người mục tử. Tuy nhiên, khi khai triển những nhận định đó, chúng tôi không nhằm trình bày những phán quyền dứt khoát bởi vì tự nó, các nhận định này không thuộc phạm vi riêng của quyền giáo huấn.

 

CHƯƠNG I

 

NHỮNG NÉT TIÊU BIỂU CỦA THÔNG ĐIỆP TÂN SỰ

4.       Một kiểu thức xã hội mới.

Khoảng cuối thế kỷ trước, Giáo hội phải đối diện với một tiến trình lịch sử đã bắt đầu từ ít lâu trước đó và đang lên tới mức độ nguy kịch. Trong các yếu tố xác định tiến trình này, có một tổng thể những thay đổi từ căn bản xảy ra trong lãnh vực chính trị, kinh tế và xã hội, và cả trong khuôn khổ khoa học và kỹ thuật, ngoài ra, còn có nhiều thứ ảnh hưởng của các ý thức hệ bá chủ. Trong lãnh vực chính trị, những thay đổi này làm nảy sinh một quan niệm mới về xã hội và Nhà Nước, và do đó cả về quyền bính nữa. Một xã hội truyền thống đã biến mất trong khi một xã hội mới bắt đầu xuất hiện, được ghi dấu bằng niềm hy vọng những quyền tự do mới, nhưng đồng thời cũng có nguy cơ sa vào những hình thức bất công và nô lệ mới.

Trong lãnh vực kinh tế, nơi hội tụ những khám phá và ứng dụng khoa học, người ta dần dần đạt được những cơ cấu mới trong việc sản xuất của cải tiêu dùng. Người ta đã chứng kiến sự xuất hiện một hình thức tư hữu mới, tức là nguồn vốn, và một hình thức lao động mới, lao động trả lương, lao động này được xác định bằng nhịp độ làm việc cực nhọc, không lưu ý đến mọi khác biệt về phái tính, tuổi tác hay tình trạng gia đình mà chỉ căn cứ vào hiệu năng để gia tăng lợi nhuận.

Như thế, lao động trở thành một món hàng có thể được tự do mua bán trên thị trường, và giá cả của nó chỉ được qui định tùy vào luật cung cầu, mà không để ý tới nhu cầu tối thiểu trong cuộc sống của người công nhân và gia đình họ. Hơn nữa, người lao động thậm chí không chắc có bán được “món hàng” của mình hay không, và họ thường xuyên bị đe dọa thất nghiệp; nếu không có xã hội bảo trợ, họ sẽ lâm vào nguy cơ chết đói.

Hậu quả của việc biến đổi đó là “chia cắt xã hội thành hai giai cấp cách nhau một trời một vực”[6]. Tình trạng này thêm vào những biến đổi thuộc lãnh vực chính trị đã nhấn mạnh ở trên. Như vậy, lý thuyết chính trị nổi bật ở thời đại đó có khuynh hướng cổ võ sự tự do tuyệt đối về kinh tế bằng những luật lệ được thích nghi cho phù hợp, hay ngược lại cố ý tránh mọi sự can thiệp. Đồng thời, dưới hình thức có tổ chức và bằng cách thức nhiều khi có bạo lực, đã bắt đầu xuất hiện một quan niệm khác về tư hữu và đời sống kinh tế, kéo theo một cơ cấu mới về chính trị và xã hội.

Ở thời điểm cực độ của sự đối kháng này, khi mà sự bất công trở nên trầm trọng trong thực tại xã hội ở nhiều nơi, và nguy cơ một cuộc cách mạng được cổ võ bởi những ý tưởng mà lúc đó được gọi là “xã hội chủ nghĩa”, đã xuất hiện rõ ràng, thì Đức Lêô XIII đã can thiệp bằng cách ban hành một văn kiện bàn về “vấn đề thợ thuyền” một cách có hệ thống. Thông điệp này đã được chuẩn bị bằng những thông điệp khác đề cập nhiều hơn đến những giáo huấn về chính trị, và còn có những thông điệp khác ban hành sau đó nữa[7]. Trong bối cảnh như vậy, đặc biệt nên nhắc lại thông điệp Libertas Praestantissimum[8], trong đó nhắc tới mối liên hệ thiết yếu giữa tự do của con người với chân lý, mối liên hệ này bền chặt đến nỗi nếu tự do từ chối nối liền với chân lý, nó sẽ trở thành độc tài, và cuối cùng, chính mình sẽ lệ thuộc những đam mê hạ đẳng nhất và sẽ tự hủy diệt. Thực vậy, tất cả những điều tệ hại mà thông điệp RN muốn loại trừ đó phát xuất từ đâu, nếu không phải là từ một thứ tự do mà trong lãnh vực hoạt động kinh tế và xã hội, đã xa rời chân lý về con người?

Mặt khác, Đức Lêô XIII đã cảm hứng từ giáo huấn của các vị tiền nhiệm cũng như từ các văn kiện khác của các Đức Giám Mục, từ những nghiên cứu có tính khoa học của người giáo dân, từ hoạt động của các phong trào và các hiệp hội Công giáo và từ những thực hiện cụ thể trong lãnh vực xã hội đã ghi đậm nét trên đời sống Giáo hội trong hậu bán thế kỷ XIX.

5.       Giải đáp của Giáo hội.

Những “sự việc mới” được Đức Giáo hoàng nghiên cứu đều là những vấn đề không tích cực chút nào. Đoạn đầu của thông điệp trình bày bằng những từ ngữ mạnh mẽ về những “sự việc mới” đó cũng là tên gọi của thông điệp: “Vào thời điểm phát triển ước vọng những sự việc mới mà từ lâu đã khuấy động các nhà nước, phải chú ý nhận ra nỗi khát vọng thay đổi, chuyển từ lãnh vực chính trị sang lãnh vực kế cận là kinh tế. Thực vậy, nền kỹ nghệ đã phát triển và các phương pháp kỹ nghệ cũng đã được canh tân hoàn toàn. Nhưng tương quan giữa chủ nhân và thợ thuyền đã thay đổi, tiền bạc, của cải tập trung vào tay một thiểu số, còn đa số sống trong nghèo đói. Người thợ đã có ý thức cao hơn về chính mình và đã liên kết với nhau chặt chẽ hơn. Tất cả những điều đó, không kể sự suy đồi về thuần phong mỹ tục, rốt cuộc đã làm bùng nổ một cục xung đột”[9].

 

Đức Giáo hoàng và Giáo hội cũng như xã hội dân sự đang đối diện với một xã hội bị chia cắt do sự xung đột ngày càng gay gắt và bất nhân, đến nỗi nó không còn biết đến lề luật, qui tắc nào nữa, đó là sự xung đột giữa tư bản và lao động, hay theo kiểu nói của thông điệp, đó là vấn đề thợ thuyền. Đức Giáo hoàng không ngần ngại đưa ra phán quyết về chính cuộc xung đột này trong những hoàn cảnh bi đát mà người ta đã nhận thấy thời đó.[10]

Ở đây tôi muốn đưa ra suy nghĩ đầu tiên mà thông điệp gợi ra cho chúng ta. Đối diện với cuộc xung đột giữa con người với nhau, có thể nói là giữa những “con chó sói”, ngay chính trên bình diện những điều kiện vật chất tối thiểu đủ sống của những người này và sự giàu có dư thừa của những người khác, Đức Giáo hoàng không ngần ngại can thiệp nhân danh “trách vụ tông đồ”, nghĩa là nhân danh sứ vụ người đã lãnh nhận nơi chính Đức Giêsu Kitô để “chăn dắt đoàn chiên” (x Ga 21,15-17), để cầm buộc và tháo cởi dưới đất “vì nước trời” (x Mt 16,19). Ý định của Người rõ ràng là để tái lập hòa bình, và độc giả ngày nay phải nhận ra sự kết án nghiêm khắc không khoan nhượng của Người chống lại cuộc đấu tranh giai cấp[11]. Nhưng Người rất ý thức sự kiện là hòa bình được xây dựng trên nền tảng công lý: rõ ràng nội dung chủ yếu của thông điệp là công bố những điều kiện nền tảng của công lý trong bối cảnh kinh tế và xã hội của thời đó[12].

Như thế, tiếp theo các vị tiền nhiệm, Đức Lêô XIII đã thiết lập một mô hình vững bền cho Giáo hội. Thực vậy, đứng trước những tình huống cụ thể của con người, cá nhân và cộng đoàn, từng quốc gia và quốc tế, Giáo hội lên tiếng, và vì họ, Giáo hội công bố một giáo lý đích thực, một học thuyết giúp Giáo hội phân tích những thực tại xã hội, cũng như đề ra những nhận định của mình về các thực tại đó, và đưa ra những đường hướng để giải đáp một cách chính đáng các vấn đề do những thực tại đó đặt ra.

Vào thời Đức Lêô XIII, một quan niệm như thế về quyền hạn và trách nhiệm của Giáo hội chưa hề được mọi người chấp nhận. Thực vậy, có hai khuynh hướng nổi bật: một là hướng về trần thế và cuộc sống đời này mà đức tin không được can thiệp vào; khuynh hướng thứ hai hướng về ơn cứu độ hoàn toàn đặt ở đời sau, và ơn cứu độ đó không đem lại áng sáng hay hướng đi nào cho cuộc sống trần thế này cả. Khi ban hành thông điệp Tân Sự, có thể nói là Đức Giáo hoàng đã trao cho Giáo hội “quyền công dân” trong những thực tại đang thay đổi của đời sống công cộng. Điều này sẽ được xác định rõ hơn nữa trong các văn kiện sau đó. Thực vậy, giáo huấn của Giáo hội về vấn đề xã hội cũng như việc truyền bá giáo huấn đó thuộc về sứ vụ loan báo tin mừng của Giáo hội; đó là một phần cốt yếu của sứ điệp Kitô giáo, bởi vì giáo lý này đưa ra những hệ luận trực tiếp của sứ điệp đó trong đời sống xã hội, và đặt lao động thường nhật và cuộc đấu tranh cho công bằng vào khung cảnh việc làm chứng cho Đức Kitô, Đấng cứu độ. Giáo lý đó đồng thời cũng là nguồn hiệp nhất và hòa bình trước những xung đột không tránh khỏi trong lãnh vực kinh tế và xã hội. Như vậy ta có thể hòa mình vào những tình trạng mới mà không làm giảm bớt phẩm giá siêu việt của con người nơi chính bản thân mình, cũng như nơi những đối thủ của mình, và tìm được con đường dẫn tới những giải quyết đúng đắn.

Sau 100 năm, giá trị của một đường hướng như vậy đã tạo cho tôi cơ hội đóng góp vào việc soạn thảo một giáo lý kitô giáo về xã hội. Trong số những yếu tố cốt yếu của việc “tái loan báo tin mừng”, hiện đang hết sức cần thiết cho thế giới, và nhiều lần tôi đã nhấn mạnh, phải kể đến việc loan báo một giáo lý của Giáo hội về vấn đề xã hội thích hợp, hôm nay cũng như thời Đức Lêô XIII, hầu đưa ra một hướng đi tốt đẹp giải đáp được những thách đố lớn lao của thời đại hiện nay trong bối cảnh các ý thức hệ đang dần dần mất đi ảnh hưởng. Cũng như thời đó, hiện nay phải lập lại rằng không có một giải pháp đích thực cho “vấn đề xã hội” ở ngoài tin mừng, và mặt khác, “những vấn đề mới” có thể tìm được trong tin mừng, là môi trường sự thật cho mình và sự thẩm định luân lý thích hợp.

6.       Quyền lợi của người lao động.

Khi chủ trương chiếu một ánh sáng vào cuộc xung đột giữa tư bản và lao động, Đức Lêô XIII khẳng định những quyền căn bản của người lao động. Vì thế, chìa khóa để đọc bản văn của Đức Giáo hoàng là chính phẩm giá của người lao động, và do đó phẩm giá của lao động được định nghĩa là “hoạt động của con người nhằm thỏa mãn những nhu cầu của cuộc sống, đặc biệt để duy trì sự  sống”[13]. Đức Giáo hoàng xác định tính cách “cá vị” của lao động, bởi vì “sức mạnh của lao động gắn liền với con người, và thuộc riêng về con người thực hiện lao động đó, và là sở hữu của họ”[14]. Như thế, lao động nằm trong ơn gọi của mọi người, con người tự bày tỏ và tự thể hiện qua hoạt động lao tác, đồng thời lao động có một chiều kích xã hội, do mối tương quan mật thiết với gia đình cũng như với công ích, “bởi vì người ta có thể khẳng định không sai lầm rằng lao động của thợ thuyền là nguồn gốc sự giàu có của nhà nước”[15]. Đó là những điều mà tôi đã lấy lại và khai triển trong thông điệp LE (lao động)[16].

 

Chắc chắn có một nguyên tắc quan trọng khác, đó là nguyên tắc về “quyền tư hữu”[17]. Thông điệp đã khai triển nhiều về vấn đề này, điều đó cho thấy vấn đề có tầm quan trọng riêng. Đức Giáo hoàng ý thức rõ ràng quyền tư hữu không phải là một giá trị tuyệt đối và Người không quên công bố những nguyên tắc bổ sung không thể thiếu, chẳng hạn nguyên tắc tài nguyên trái đất phải dành cho mọi người[18].

Vả lại, nếu thực sự kiểu tư hữu mà Đức Giáo hoàng đã đặc biệt đề cập đến là sở hữu đất đai[19], thì ngày nay, các lý lẽ đưa ra để bảo vệ quyền tư hữu, vẫn giữ được giá trị của nó, nghĩa là để khẳng định quyền chiếm hữu những gì cần thiết cho việc phát triển cá nhân và gia đình, cho dù hình thức thực sự của quyền này như thế nào. Phải khẳng định quyền đó một lần nữa trước những thay đổi mà chúng ta đang chứng kiến trong những hệ thống xã hội đã chấp nhận nguyên tắc sở hữu tập thể các phương tiện sản xuất, và cả trước những tình trạng ngày càng gia tăng tình trạng nghèo khổ, hay đúng hơn, trước những sự chối bỏ quyền tư hữu tại nhiều miền trên thế giới. Kể cả những miền trong đó những hệ thống xã hội xây dựng trên sự khẳng định quyền tư hữu đang chiếm ưu thế. Tiếp theo những thay đổi đó, và sự nghèo khổ triền miên, cần phải có sự phân tích vấn đề một cách sâu xa hơn, điều này sẽ được đề cập đến sau.

7.        Sự cần thiết của các nghiệp đoàn

Thông điệp của Đức Lêô XIII cũng khẳng định những quyền khác tương quan mật thiết với quyền tư hữu, khi Đức Giáo hoàng quả quyết chúng vốn có trong con người và bất khả di nhượng. Trong số những quyền này, “quyền tự nhiên của con người” trong các việc lập các hiệp hội tư chiếm địa vị hàng đầu, vì Đức Giáo hoàng đã khai triển rộng rãi quyền đó và dành cho nó một tầm mức quan trọng, trước hết, đó là quyền sáng lập các nghiệp đoàn giữa các chủ nhân xí nghiệp và thợ thuyền hay giữa các thợ thuyền mà thôi[20]. Ở đây, người ta nắm được động lực khiến Giáo hội bênh vực và phê chuẩn việc sáng lập những tổ chức quen gọi là nghiệp đoàn, chắc chắn không do thành kiến mang tính ý thức hệ hay chiều theo não trạng giai cấp, nhưng vì liên hiệp với nhau là một quyền tự nhiên của con người, và do đó, là một quyền có trước khi được xã hội chính trị nhìn nhận. Thực vậy, “nhà nước được lập ra là để bảo vệ, chứ không phải để tiêu diệt quyền tự nhiên. Khi ngăn cấm những Hiệp hội như thế, nhà nước tự chống lại chính mình”[21].

Ngoài việc đã minh nhiên nhìn nhận quyền nói trên – nên nhấn mạnh điều này – đối với người thợ, hay nói theo từ ngữ của Đức Giáo hoàng: “dành cho những người vô sản”, Đức Giáo hoàng còn khẳng định rõ rệt những quyền như “giới hạn giờ lao động”, nghỉ ngơi chính đáng và đối xử đặc biệt đối với trẻ em và phụ nữ [22] trong những gì liên hệ đến loại công việc và thời gian làm việc.

Nếu chúng ta nhớ lại những gì lịch sử đã cho chúng ta biết về những thực hành đã được chấp nhận, hay ít là không bị luật pháp ngăn cấm trong lãnh vực các khế ước đã được thông qua, mà không chút bảo đảm về thời khóa biểu, về điều kiện vệ sinh của công việc, cũng không tôn trọng tuổi tác hay phái tính của những ứng viên xin việc làm, thì chúng ta sẽ hiểu rõ những nghiêm khắc trong lời của Đức Giáo Hoàng. Người viết: “Thật không công bình, cũng chẳng có nhân bản, nếu đòi hỏi con người một công việc làm cho lý trí đần độn và có thể ra yếu nhược do mệt mỏi quá sức”. Và một cách chi tiết hơn, khi bàn đến khế ước có mục đích thể hiện “những tương quan lao động” nói trên, Người quả quyết: “Trong mọi hợp đồng giữa chủ và thợ, cần phải ghi điều kiện minh nhiên hay mặc nhiên” rằng cần sắp xếp một thời gian nghỉ ngơi thích hợp tương ứng với “sức lực tiêu hao trong lao động”, rồi Người kết luận: “Một khế ước đi ngược lại sẽ là vô luân”17.

8.       Quyền có đồng lương chính đáng.

Ngay sau đó, Đức Giáo hoàng công bố một quyền khác của người lao động với tư cách là con người. Đó là quyền có “đồng lương chính đáng”, quyền này không thể để tùy “sự tự do đồng ý của các bên đến nỗi người chủ thuê thợ, sau khi đã trả tiền lương như đã thỏa thuận, dường như đã xong hợp đồng và không còn trách nhiệm nào khác nữa”[23]. Nhà nước – như thời đó người ta nói – không có quyền can thiệp vào việc quyết định các khế ước đó, ngoài việc bắt thực hiện những gì đã thỏa thuận rõ ràng. Một quan niệm như thế trong tương quan giữa chủ và thợ, hoàn toàn có tính cách thực dụng và bị thúc đẩy do cá nhân chủ nghĩa hẹp hòi đã bị thông điệp phê phán nặng nề là đi ngược lại hai đặc tính của lao động, tức là có tính cá vị và cần thiết. Thực vậy, nếu lao động xét như của con người, thì thuộc về khả năng và sức lực mà mọi người được tự do sử dụng; xét như là điều cần thiết, lao động được chi phối do bổn phận nặng nề của mỗi người là “duy trì sự sống”; “từ bổn phận này, Đức Giáo hoàng kết luận, thiết yếu nảy sinh quyền tìm kiếm những gì giúp mình có thể sống, những cái mà người nghèo chỉ có thể kiếm được nhờ đồng lương do lao động của mình”[24].

Bài này đã được xem 787 lần!

Pages ( 2 of 12 ): <1 2 34 ... 12>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]