THÔNG ĐIỆP CENTESIMUS ANNUS (BÁCH CHU NIÊN)

Tiền lương phải đủ để nuôi sống người thợ và gia đình của họ. Nếu người lao động “bị ép buộc do sự cần thiết hay bị thúc đẩy do sợ hãi một điều xấu hơn, phải chấp nhận những điều kiện rất khắc nghiệt, mà họ không thể từ chối vì những điều kiện do ông chủ hay người tạo công ăn việc làm cho họ áp đặt, khi ấy, họ phải chịu cưỡng bức ngược với lẽ công bằng”[25].

Ước mong rằng những dòng chữ đó, được viết vào lúc đang phát triển cái mà người ta gọi là “chủ nghĩa tư bản dã man”, ngày nay không cần phải lấy lại và lặp lại với cùng một giọng nghiêm khắc! Đáng tiếc, cả ngày hôm nay nữa, vẫn còn những bản khế ước giữa ông chủ và thợ không biết đến sự công bằng sơ đẳng nhất trong vấn đề lao động của người thợ vị thành niên hay của phụ nữ về thời gian làm việc, về những điều kiện vệ sinh trong nơi làm việc và về đồng lương chính đáng. Điều đó vẫn xảy ra cho dù đã có các tuyên ngôn và các công ước quốc tế[26], và cả luật pháp của nhiều nhà nước. Đức Giáo hoàng đã quy cho “chính quyền” “bổn phận khắt khe” phải chăm sóc phúc lợi của người lao động cho chu đáo, bởi vì nếu chính quyền không thực hiện điều đó, sẽ xúc phạm đến công lý, và Người không ngần ngại gọi là “công bằng phân phối” [27].

9.       Quyền tự do tôn giáo

Thêm vào những quyền đó, Đức Lêô XIII còn nêu ra một quyền khác nữa, vẫn luôn liên quan đến thân phận người lao động mà tôi muốn nhắc lại do tầm quan trọng của nó: quyền tự do thi hành nhiệm vụ tôn giáo của mình. Đức Giáo hoàng đã tuyên bố rõ ràng quyền này trong bối cảnh những quyền lợi và nhiệm vụ khác của thợ thuyền, cho dù, trong bầu không khí chung, ngay từ thời đó, người ta đã cho rằng có một số vấn đề hoàn toàn thuộc về lãnh vực đời sống riêng tư. Đức Thánh cha khẳng định sự cần thiết của việc nghỉ ngày chủ nhật, để nhắc cho con người nhớ tới những thiện hảo thiêng liêng và trách nhiệm tôn thờ Đấng Tối Cao[28]. Không ai được tước quyền đó của con người, một quyền bắt nguồn từ giới luật nền tảng, Người viết: “Không một ai được xúc phạm tới phẩm giá đó của con người mà không bị trừng phạt, một phẩm giá mà chính Thiên Chúa cũng đã hết sức tôn trọng”. Vì thế, Nhà Nước phải bảo đảm cho thợ thuyền được thể hiện quyền tự do đó[29].

Trong khẳng định rõ ràng trên đây, người ta không lầm khi nhận thấy hàm chứa nguyên lý về quyền tự do tôn giáo, là quyền mà kể từ đó đã trở thành đối tượng của nhiều tuyên ngôn và công ước quốc tế trang trọng[30], không kể Tuyên ngôn nổi tiếng của Công Đồng Vatican II và nhiều giáo huấn của tôi[31]. Về điều này, chúng ta phải tự hỏi những qui định luật pháp hiện hành và các thực hành trong các xã hội kỹ nghệ hôm nay có giúp thực sự bảo đảm thi hành quyền căn bản được nghỉ ngày chủ nhật hay không?

10.   Vai trò của nhà nước.

Một dữ kiện quan trọng khác là, rất phong phú về giáo huấn cho thời đại chúng ta, đó là quan niệm về tương quan giữa Nhà nước và các công dân. Thông điệp Tân Sự phê phán hai hệ thống xã hội và kinh tế, tức là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tự do. Thông điệp dành phần mở đầu để phê phán chủ nghĩa xã hội khi tái khẳng định quyền tư hữu. Ngược lại không có đoạn nào dành riêng cho chủ nghĩa tự do, nhưng – và điều này đáng cho chúng ta lưu ý – những phê phán về chủ nghĩa tự do nằm ở phần bàn về đề tài những bổn phận của Nhà Nước[32]. Nhà Nước không thể chỉ quan tâm đến việc “bảo vệ một số công dân”, những người giàu có và sung túc, mà bỏ rơi “số công dân khác”, là những người chắc chắn đại diện cho đa số lớn lao trong xã hội. Nếu không sẽ làm tổn thương đến sự công bằng đã phải trả cho mọi người những gì thuộc về họ. “Nhưng trong khi bảo vệ quyền lợi riêng phải quan tâm đặc biệt đến những người hèn kém, nghèo khổ. Giới giàu có, mạnh thế về của cải, ít cần sự bảo vệ của chính quyền hơn; còn giới nghèo, vì không có tiền bạc để che chở cho mình, nên nương tựa nhiều vào sự che chở của nhà nước. Vì thế, Nhà nước phải chăm sóc và lưu tâm đặc biệt đến những người lao động thuộc đám đông những người thua thiệt” [33].

Những đoạn văn này ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị, nhất là khi đối diện với những hình thức nghèo nàn mới đang hiện hữu trong thế giới, vì lẽ những khẳng định quan trọng như thế hoàn toàn không tùy thuộc vào một quan niệm nhất định về nhà nước, cũng không lệ thuộc vào một lý thuyết chính trị đặc thù nào. Đức Giáo hoàng nhắc lại nguyên lý sơ đẳng của mỗi tổ chức chính trị lành mạnh: trong một xã hội, cá nhân nào càng dễ tổn thương thì họ càng cần được những người khác giúp đỡ và lưu tâm, nhất là được sự giúp đỡ của chính quyền.

Như thế, Nguyên tắc liên đới, như người ta thường nói ngày nay, mà trong thông điệp SRS tôi đã nhắc tới [34], giá trị của nó trong trật tự của mỗi quốc gia cũng như trật tự quốc tế, là một trong những nguyên tắc nền tảng của quan niệm kitô giáo về tổ chức chính trị và xã hội. Nguyên tắc đã nhiều lần được Đức Lêô XIII phát biểu với từ ngữ “tình bạn”, mà chúng ta đã thấy trong triết học Hy lạp. Đức Piô XI đã gọi bằng một danh từ ý nghĩa không kém là “bác ái xã hội”, trong lúc Đức Giáo hoàng Phaolô VI, khi mở rộng quan điểm đó theo những chiều kích hiện đại khác nhau của vấn đề xã hội, đã gọi là “văn minh của tình yêu”[35].

11.   Giáo hội đứng về phía người nghèo.

Khi đọc lại thông điệp RN trong bối cảnh thời đó chúng ta có thể lưu ý đến mối quan tâm cũng như hành động liên lỉ của Giáo hội nhằm nâng đỡ những lớp người được Chúa Giêsu yêu thương hơn. Nội dung của bản văn này là một chứng từ tuyệt vời về tính liên tục trong Giáo hội, của điều mà người ta gọi là “lựa chọn ưu tiên về phía người nghèo”, một sự lựa chọn được định nghĩa như là một “hình thức ưu tiên đặc biệt trong thực hành Đức Ái kitô giáo” [36]. Như thế, thông điệp về “vấn đề thợ thuyền” là một thông điệp về người nghèo, và về điều kiện thê thảm mà tiến trình mới trong kỹ nghệ hóa thường là tàn bạo, đã dồn một số rất đông con người vào tình trạng đó. Cả ngày nay nữa, trong phần lớn thế giới, những tiến trình như thế trong biến chuyển kinh tế, xã hội, chính trị vẫn nảy sinh ra những tai ương tương tự.

Nếu Đức Lêô XIII phải kêu gọi tới nhà nước để cứu vãn hoàn cảnh của người nghèo theo sự công bằng, thì Người làm điều đó cũng vì Người nhìn nhận một cách chính đáng rằng Nhà Nước có bổn phận lo lắng cho công ích, và liệu sao cho mỗi lãnh vực trong sinh hoạt xã hội, kể cả lãnh vực kinh tế, đều góp phần vào việc cổ võ công ích, trong khi vẫn tôn trọng sự tự lập chính đáng của mỗi lãnh vực. Tuy nhiên, theo Đức Lêô XIII, không nên kết luận rằng, giải pháp cho vấn đề xã hội trong mọi trường hợp đều do Nhà Nước. Ngược lại, Đức Giáo hoàng nhiều lần nhấn mạnh tới những giới hạn cần thiết trong sự can thiệp của Nhà Nước, và nhấn mạnh tới bản chất công cụ của Nhà Nước, vì cá nhân, gia đình và xã hội là những thành phần có trước Nhà Nước, và Nhà Nước hiện hữu là để bảo vệ những quyền lợi riêng của họ mà không khi nào được đàn áp họ[37].

Ai cũng biết tính cách thời sự của những suy tư này. Cần bàn lại đề tài quan trọng này liên quan đến những giới hạn vốn thuộc về bản chất của Nhà Nước ở một đoạn sau. Các điểm được nhấn mạnh, mặc dù không phải là những điểm duy nhất được thông điệp bàn tới, nằm trong tính liên tục của giáo huấn Giáo hội về vấn đề xã hội, và được soi sáng do một quan niệm lành mạnh về quyền tư hữu, về lao động, về phát triển kinh tế, về bản chất của Nhà Nước, và nhất là về chính con người. Những đề tài khác sẽ được đề cập tiếp theo khi bàn đến một số khía cạnh của thực tại hiện nay, nhưng ngay bây giờ, cần lưu ý rằng, điều làm nên cái nền, và một cách nào đó, hướng dẫn cho thông điệp RN và cho toàn bộ giáo lý của Giáo hội về vấn đề xã hội, đó là quan niệm đúng đắn về con người, về giá trị độc nhất của họ, trong tầm mức con người là tạo vật duy nhất trên trái đất được Thiên Chúa muốn vì chính họ[38]. Trong con người, Thiên Chúa đã khắc ghi hình ảnh của Người, tạo dựng họ giống như Người (x St 1,26) khi ban cho con người một phẩm giá vô song, thông điệp nhiều lần nhấn mạnh tới điều đó. Thực vậy, bên trên những quyền lợi mà con người được hưởng khi làm việc, còn có những quyền lợi không tương ứng với bất cứ hoạt động nào của con người, nhưng phát xuất từ phẩm giá chính yếu của con người.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG II

HƯỚNG TỚI NHỮNG ĐIỀU MỚI MẺ CỦA NGÀY HÔM NAY

12.       Những dữ kiện của Đức Giáo hoàng Lêô XIII

Thông điệp RN sẽ không được kỷ niệm một cách xứng hợp nếu chúng ta không để ý đúng mức đến hoàn cảnh hiện tại. Nội dung của thông điệp đã gợi lên suy tư đó; thực vậy, bối cảnh lịch sử và những dữ kiện của thông điệp đã tỏ ra chính xác lạ lùng, dưới ánh sáng của những biến cố sau này.

Những dữ kiện xảy ra vào những tháng cuối năm 1989 và đầu năm 1990 đã đặc biệt xác nhận điều đó. Những sự kiện này kể cả những biến đổi triệt để theo sau, chỉ có thể giải thích được nhờ dựa vào những hoàn cảnh có trước, là những hoàn cảnh đã cô đọng hay thể chế hóa cách nào đó, những tiên liệu của Đức Lêô XIII và những dấu chỉ ngày càng gây lo ngại mà các Vị kế nghiệp của Người đã nhận ra. Quả thật, Đức Giáo hoàng Lêô XIII đã thấy trước những hậu quả tiêu cực dưới mọi khía cạnh: chính trị, xã hội và kinh tế – của một cơ chế xã hội như “chủ thuyết xã hội” đề nghị; chủ thuyết này lúc bấy giờ còn là một triết thuyết xã hội và một phong trào ít nhiều cơ cấu hóa. Người ta có thể ngạc nhiên vì Đức Giáo hoàng đã khởi đầu từ “chủ thuyết xã hội” để phê bình những giải pháp được đề nghị về “vấn đề thợ thuyền”, lúc mà chủ thuyết xã hội chưa có được hình thức một nhà nước mạnh mẽ và đầy thế lực, có quyền sử dụng mọi tài nguyên như sau này. Tuy nhiên Đức Giáo hoàng đã lượng định rất đúng mối nguy cơ đối với quần chúng, do lối trình bày hấp dẫn về một giải pháp vừa đơn giản vừa triệt để cho “vấn đề thợ thuyền” thời ấy. Điều đó càng đúng hơn nữa nếu để ý đến tình trạng bất công đang dồn ép những đám đông quần chúng vô sản tại những quốc gia mới được kỹ nghệ hóa.

Ở đây cần ghi nhận hai điều: một đàng là sự sáng suốt đặc biệt để có thể nhận thức một cách sâu sắc, tình cảnh thực sự của những người vô sản gồm đàn ông, đàn bà và trẻ em…; đàng khác là một nhận định không kém phần minh bạch, để có thể phân biệt được cái xấu trong một giải pháp mà bên ngoài là đảo ngược tình trạng người giàu người nghèo, nhưng trong thực tế lại gây thiệt hại cho chính những người mà người ta hứa giúp đỡ. Hóa ra vị thuốc còn tệ hơn căn bệnh. Khi nêu rõ bản tính của chủ thuyết xã hội thời ấy vốn chủ trương tước bỏ quyền tư hữu, Đức Lêô XIII đã đề cập đến trọng tâm của vấn đề.

Chúng ta chú ý đọc lại lời Đức Giáo hoàng: “Để sửa chữa một điều xấu là việc phân phối các của cải một cách bất công, và sự khốn cùng của những người vô sản, những người chủ trương thuyết xã hội đã thúc đẩy người nghèo đến chỗ ghen tị với những người giàu có. Họ chủ trương dẹp bỏ quyền tư hữu, của cải đều là của chung mọi người… Thế nhưng một lý thuyết như vậy nếu được áp dụng, thay vì có thể chấm dứt sự xung đột, thì lại làm hại cho người thợ thuyền. Vả lại chủ trương này cũng hoàn toàn bất công, vì xâm phạm đến những sở hữu chủ hợp pháp, làm biến tính chức năng của Nhà Nước và đảo lộn tận gốc rễ toàn bộ cơ cấu xã hội” [39]. Không thể nào vạch rõ hơn nữa những tai họa xảy ra do việc thiết lập loại chủ thuyết xã hội này như một hệ thống nhà nước, với tên gọi là “chủ thuyết xã hội hiện thực”.

13.   Sai lầm căn bản của chủ thuyết xã hội.

Bây giờ chúng ta đào sâu suy tư và cũng quy chiếu với tất cả những gì đã được đề cập đến trong các thông điệp LE và SRS, ta phải thêm rằng sai lầm căn bản của “chủ thuyết xã hội” là ở quan niệm về con người. Thực vậy, chủ thuyết này coi cá nhân chỉ đơn giản là một yếu tố, một phần tử trong cấu trúc xã hội, đến nỗi điều thiện hảo của mỗi người hoàn toàn tùy thuộc vào hoạt động của bộ máy kinh tế và xã hội, trong khi mặt khác, chủ thuyết đó cho rằng chính thiện hảo cá nhân ấy cũng có thể có được mà không cần đến lựa chọn tự do của cá nhân, không cần quyết định duy nhất, tuyệt đối và có trách nhiệm trước điều thiện hay điều ác. Như thế, con người chỉ còn là một tổng hợp những tương quan xã hội, và lúc ấy không còn quan niệm con người như một chủ thể có quyền tự quyết về luân lý, nhờ đó con người xây dựng nên trật tự xã hội. Từ quan niệm sai lầm về con người như thế đã đi đến sự lầm lạc về luật xác định lãnh vực thực hiện tự do, cũng như phủ nhận quyền tư hữu. Thực vậy, con người bị tước mất những gì có thể gọi là “của mình”, mất khả năng mưu sinh nhờ sáng kiến của mình, đi đến chỗ lệ thuộc vào bộ máy xã hội và vào những người kiểm soát bộ máy đó, điều này khiến cho con người gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận thức phẩm giá của mình và cản trở việc tiến tới sự thiết lập một cộng đồng nhân loại đích thực.

Ngược lại, quan niệm của kitô giáo về con người tất yếu đưa đến cái nhìn đúng đắn về xã hội. Theo thông điệp RN và toàn bộ học thuyết của Giáo hội về xã hội, thì tính chất xã hội của con người không bị tiêu tan đi trong Nhà Nước nhưng được thể hiện trong những nhóm trung gian khác nhau, từ gia đình đến những nhóm kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa. Những nhóm này, phát xuất từ chính bản chất con người, vẫn có quyền tự quyết riêng – luôn luôn trong khuôn khổ lợi ích chung. Đó là điều chúng tôi gọi là tính “ngôi vị” của xã hội, tính cách này đã bị “chủ nghĩa xã hội hiện thực” xóa bỏ cùng với tính ngôi vị của cá nhân [40]2.

Nếu sau đó, người ta hỏi từ đâu nảy sinh quan niệm sai lầm như thế về tính cách ngôi vị của con người và tính cách ngôi vị của xã hội, thì phải trả lời rằng nguyên nhân đầu tiên là thuyết vô thần. Chính qua việc đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa hàm ngụ trong các sự vật, mà con người ý thức được phẩm giá siêu việt của mình. Mỗi người phải đáp trả vì trong lời đáp trả ấy con người đạt tới đỉnh cao nhân tính của mình, và không một bộ máy xã hội hay một chủ thể cộng đồng nào có thể thay thế được. Việc phủ nhận Thiên Chúa cắt đứt con người khỏi gốc rễ của mình, và vì vậy khuyến khích việc tổ chức lại trật tự xã hội mà không đếm xỉa gì đến phẩm giá và trách nhiệm của ngôi vị.

Vả lại thuyết vô thần mà ta nói đến ở đây, có liên hệ mật thiết với chủ trương duy lý của nền triết học ánh sáng, chủ trương này quan niệm thực tại con người và xã hội một cách máy móc. Như vậy người ta phủ nhận trực giác chung cuộc về tầm mức vĩ đại thực sự của con người, phủ nhận siêu việt tính của con người trong tương quan với thế giới sự vật, phủ nhận sự mâu thuẫn con người cảm thấy trong tâm hồn giữa ước vọng sự thiện sung mãn và sự bất lực của mình để đạt được sự thiện đó, và nhất là phủ nhận sự cần thiết của ơn cứu độ phát xuất từ đó.

 

14.   Thuyết vô thần là nguồn gốc đấu tranh giai cấp.

Cũng chính do nguồn gốc thuyết vô thần này đã phát sinh sự lựa chọn những phương thế riêng biệt của chủ nghĩa xã hội mà thông điệp RN đã lên án. Đó là cuộc đấu tranh giai cấp. Dĩ nhiên, Đức Giáo hoàng không chủ trương kết án mọi xung đột xã hội dưới bất cứ hình thức nào: Giáo hội hiểu rằng những xung đột về quyền lợi giữa những nhóm xã hội khác nhau vốn không thể tránh được trong lịch sử, và kitô hữu phải thường xuyên coi lập trường về vấn đề đó một cách dứt khoát và hợp lý. Vả lại, thông điệp LE đã công nhận vai trò tích cực của xung đột khi nó mang tính chất của một cuộc “đấu tranh vì công bình xã hội”[41], và trong thông điệp Quadragesimo anno (năm thứ 40) chúng ta đọc thấy: “Thật thế, sự đấu tranh giai cấp, khi gạt bỏ những hành vi bạo lực và thù ghét lẫn nhau, sẽ dần dần biến thành một cuộc tranh luận chính đáng, đặt nền tảng trên việc tìm kiếm công lý”[42].

Bài này đã được xem 803 lần!

Pages ( 3 of 12 ): <12 3 45 ... 12>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]