Đúng hơn, điều bị kết án trong cuộc đấu tranh giai cấp đó là quan niệm về sự xung đột, mà không lưu ý đến đạo đức hay pháp lý, từ chối tôn trọng phẩm giá người khác (và vì thế không tôn trọng phẩm giá của chính mình); do đó loại trừ sự dung hòa hợp lý, không tìm điều thiện chung của xã hội, mà chỉ tìm kiếm lợi ích của đảng phái, và muốn triệt hạ những ai chống đối mình. Tóm tắt, đó là lập lại trong lãnh vực xung đột nội bộ giữa các nhóm xã hội – chủ trương “chiến tranh toàn diện” mà chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa đế quốc đã đề cao trong lãnh vực các mối tương giao quốc tế. Chủ thuyết này thay vì tìm kiếm sự quân bình chính đáng giữa lợi ích của các quốc gia khác nhau, thì lại tìm kiếm ưu thế tuyệt đối cho phe đảng của mình bằng cách tiêu diệt sức đề kháng của đối phương, dùng đủ mọi phương thế, kể cả dối trá khủng bố thường dân và những vũ khí hủy diệt (được chế tạo vào đúng những năm ấy). Vậy đấu tranh giai cấp theo thuyết Mác – xít và chủ nghĩa quân phiệt có chung một nguồn gốc: vô thần và chủ trương khinh miệt nhân vị, vốn đề cao nguyên tắc sức mạnh hơn lẽ phải và quyền lợi.
15. Bổn phận của nhà nước
Như đã nói, thông điệp RN chống lại việc quốc hữu hóa các phương tiện sản xuất vì làm cho mọi công dân chỉ còn là một bộ phận trong guồng máy nhà nước, thông điệp cũng dứt khoát phê phán quan niệm Nhà Nước chủ trương đặt lãnh vực kinh tế hoàn toàn ra ngoài phạm vi quan tâm và hoạt động của mình. Chắc chắn có một phạm vi hợp pháp để các hoạt động kinh tế có quyền tự trị, Nhà Nước không nên can dự vào đó. Tuy nhiên, Nhà Nước có bổn phận xác định khuôn khổ pháp luật giúp triển khai các tương giao kinh tế, và như thế bảo vệ được những điều kiện tiên quyết của nền kinh tế tự do, một nền kinh tế gia đình và sự bình đẳng giữa các thành phần, làm sao để thành phần này không vượt trổi hơn thành phần kia đến độ trong thực tế biến nó thành nô lệ[43].
Về vấn đề này, thông điệp RN đề ra những cải tổ chính đáng, khả dĩ phục hồi giá trị cho lao động như một hoạt động tự do của con người. Những cải cách này giả thiết rằng xã hội và Nhà Nước lãnh trách nhiệm của mình đặc biệt là để bảo vệ người lao động thất nghiệp trong một lịch sử điều này được thực hiện theo hai được đồng quy: hoặc do những chính sách kinh tế nhằm bảo đảm một sự phát triển quân bình và hoàn cảnh có công ăn việc làm đầy đủ, hoặc bằng những bảo đảm chống lại nạn thất nghiệp và những chính sách thất nghiệp thích hợp, để các công nhân trong những ngành nghề đang bị khủng hoảng dễ dàng chuyển sang những hoạt động khác đang trên đà phát triển.
Ngoài ra, xã hội và nhà nước phải bảo đảm mức lương cân xứng để người lao động và gia đình họ có thể sống được, cũng như có thể dành dụm để tiết kiệm. Điều này đòi hỏi phải nỗ lực bồi dưỡng cho công nhân nâng cao kiến thức và khả năng, giúp cho công việc của họ thêm chất lượng và tăng sản phẩm hơn nhưng cũng phải thường xuyên giám sát và có biện pháp thích hợp và pháp luật để ngăn chặn những hiện tượng bóc lột đáng xấu hổ, nhất là gây thiệt hại cho những người lao động thiếu thốn nhất, những người di cư hay những người sống bên lề xã hội. Trong lãnh vực này, vai trò của các nghiệp đoàn có tính cách quyết định, vì đoàn có nhiệm vụ thương thảo mức lương tối thiểu và những điều kiện lao động.
Sau cùng, phải tôn trọng thời khóa biểu sinh sống của “con người” trong việc lao động và nghỉ ngơi cũng như quyền bày tỏ nhân cách của họ trong những môi trường lao động mà không được xâm phạm đến lương tâm và phẩm giá của họ bất cứ cách nào. Cũng nên nhắc đến vai trò của các nghiệp đoàn, không chỉ là những phương thế để thương lượng, mà còn là những “môi trường” bày tỏ nhân cách: các nghiệp đoàn hữu ích cho việc phát triển một nền văn hóa đích thực về lao động, và giúp cho người lao động tham gia vào sinh hoạt của xí nghiệp một cách hoàn toàn nhân bản[44].
Nhà nước phải góp phần vào việc thực thi những mục tiêu này các trực tiếp hoặc gián tiếp. Cách gián tiếp và theo nguyên tắc hỗ trợ, là tạo điều kiện thuận lợi cho tự do hoạt động kinh tế, nhờ đó có thể tạo ra nhiều công ăn việc làm và nguồn tài sản phong phú. Cách trực tiếp và theo nguyên tắc liên đới, để bảo vệ những người yếu kém nhất, là hạn chế phần nào quyền tự trị của các thành phần nắm quyền quyết định về những điều kiện làm việc, và trong mỗi trường hợp, bảo đảm cho người lao động thất nghiệp mức sống tối thiểu[45].
Thông điệp và giáo huấn về xã hội sau thông điệp đã gây nhiều ảnh hưởng khác nhau và những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Ảnh hưởng này là nguồn gốc cho nhiều cuộc canh tân trong lãnh vực dự phòng xã hội, nghỉ hưu, bảo hiểm, dự phòng tai nạn, tất cả đều nằm trong bối cảnh nhằm tôn trọng quyền của người lao động nhiều hơn nữa[46].
16. Hoạt động của phong trào công nhân.
Các nhà nước đã thực hiện được một phần những cuộc cải tổ, nhưng trong cuộc đấu tranh để đạt được những cải tổ ấy, hoạt động của phong trào công nhân có một vai trò quan trọng. Phát sinh từ phản ứng của ý thức luân lý chống lại những tình trạng bất công và tác hại, phong trào ấy phát triển thành một hoạt động nghiệp đoàn và canh tân rộng rãi. Phong trào đó không phải là những ý thức hệ xa vời, nhưng thiết thực đối với những nhu cầu thường ngày của người lao động, và trong lãnh vực này nỗ lực của họ thường liên kết với nỗ lực của kitô hữu nhằm nâng cao điều kiện sống của những người lao động.
Về sau, trong một mức độ nào đó, phong trào nói trên rõ ràng đã bị ý thức hệ Mác – xít chi phối, thông điệp RN đã chống lại ý thức hệ này.
Chính những cuộc cải tổ này cũng là kết quả của một tiến trình tự do nhằm tự tổ chức xã hội, với việc điều chỉnh những phương thế tăng cường sự liên đới, thích hợp để nâng đỡ một sự tiến triển kinh tế tôn trọng những giá trị của con người nhiều hơn. Ở đây, cần nhắc lại những hoạt động đa dạng, với phần đóng góp đáng kể của các kitô hữu, từ đó đã đưa đến việc thành lập những hợp tác xã sản xuất, tiêu thụ và tín dụng, thúc đẩy việc giáo dục cho dân chúng và huấn nghệ, thử nghiệm những hình thức khác nhau để tham gia vào sinh hoạt của xí nghiệp, và nói chung của xã hội.
Như vậy, khi nhìn lại quá khứ, nếu như có những lý do để tạ ơn Thiên Chúa vì thông điệp quan trọng đã có âm hưởng mạnh mẽ nơi các tâm hồn, và đã thúc đẩy tới lòng quảng đại tích cực, thì cũng phải nhìn nhận rằng, lời tiên báo có tính ngôn sứ mà thông điệp phát biểu đã không được con người thời ấy đón nhận trọn vẹn, và do đó đã phát sinh nhiều tai họa rất lớn lao.
17. Quan niệm về tự do.
Khi nối kết thông điệp này với toàn bộ giáo huấn phong phú của Đức Giáo hoàng Lêô XIII[47], người ta sẽ thấy, từ ăn bản, thông điệp vạch rõ những hậu quả do sự sai lầm có tầm mức rất lớn trên lãnh vực kinh tế và xã hội. Như đã nói, sai lầm đó hệ tại một quan niệm về tự do của con người muốn trốn tránh bổn phận tôn trọng quyền lợi của người khác. Khi ấy, ý nghĩa tự do được hiểu là lòng yêu chính mình, đi đến việc khinh thường Thiên Chúa và tha nhân, đó là một thứ tình yêu hướng đến sự khẳng định lợi ích riêng tư vô giới hạn, và không để mình bị chi phối bởi bất cứ nghĩa vụ nào về công lý [48].
Những hệ quả ghê gớm của sai lầm này hiện rõ trong chu kỳ bi đát của những cuộc chiến tranh làm rung chuyển cả Châu âu và cả thế giới từ 1914-1945. Đó là những cuộc chiến do chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa quốc gia quá khích, và do những hình thức của chế độ cực quyền có liên cất với những chủ nghĩa trên gây nên, đó là những cuộc chiến phát sinh từ cuộc đấu tranh giai cấp, những cuộc nội chiến và chiến tranh ý thức hệ. Không có tác động ghê gớm của lòng ghen ghét và thù hận, tích tụ do biết bao bất công trên bình diện quốc tế, lẫn bên trong các quốc gia, thì đã không xảy ra những cuộc chiến khốc liệt như thế, trong đó các cường quốc tham gia với tất cả sức mạnh, trong đó người ta không ngần ngại xâm phạm đến các quyền thiêng liêng nhất của con người, và trong đó người ta thảo kế hoạch và thực hiện việc tận diệt nhiều dân tộc và toàn bộ những nhóm xã hội. Ở đây chúng ta đặc biệt nhớ đến Dân tộc Do thái mà số phận kinh hoàng của họ đã trở thành một biểu tượng của sự điên rồ mà con người có thể sa vào khi họ chống lại Thiên Chúa.
Tuy nhiên, thù hận và bất công chỉ bao trùm toàn thể các quốc gia, và chỉ thúc đẩy họ hành động một khi chúng được hợp thức hóa và được tổ chức do các ý thức hệ đặt nền tảng trên chúng hơn là trên sự thật về con người[49]. Thông điệp RN chống lại các ý thức hệ chủ trương thù hận, và đã trình bày các cách thức dùng công lý để chấm dứt bạo lực và oán giận. Ước mong ký ức về những biến cố khủng khiếp ấy hướng dẫn hoạt động của tất cả mọi người, nhất là của các vị lãnh đạo các dân tộc ở thời đại chúng ta, trong lúc những bất công khác đang nuôi dưỡng những mối thù hận mới, và ở chân trời đang xuất hiện những ý thức hệ mới đề cao bạo lực.
18. Nguồn gốc của chiến tranh
Chắc chắn từ 1945, trên lục địa Châu đã im tiếng súng, tuy nhiên chúng ta cần nhớ lại rằng hòa bình thực sự không bao giờ là kết quả của chiến thắng quân sự, nhưng giả thiết phải loại bỏ những nguyên nhân gây ra chiến tranh và đòi hỏi sự hòa giải đích thực giữa các dân tộc. Ngược lại trong suốt nhiều nhiều năm qua, ở Châu Âu cũng như nhiều nơi trên thế giới, có tình trạng không chiến tranh, chứ không phải là hòa bình thực sự. Một nửa lục địa này rơi vào quyền lực của chế độ độc tài cộng sản, trong khi phần còn lại tự tổ chức để bảo vệ chống lại loại nguy hiểm đó. Nhiều dân tộc mất quyền định đoạt về chính mình, bị kiềm tỏa trong những giới hạn của một đế quốc áp bức cố gắng hủy diệt ký ức lịch sử và những nền văn hóa dân tộc có nguồn gốc lâu đời. Tiếp theo sự chia cắt bạo tàn ấy, những đoàn người đông đảo bị cưỡng bách rời bỏ mảnh đất của mình và bị đi lưu đày.
Cuộc chạy đua vũ trang điên cuồng đã ngốn hết những tài nguyên cần thiết cho sự phát triển các nền kinh tế trong nước và cho việc giúp đỡ các quốc gia cùng khổ nhất. Tiến bộ khoa học và kỹ thuật đáng lẽ phải góp phần vào việc làm cho con người sống hạnh phúc hơn, lại biến thành công cụ chiến tranh. Khoa học và kỹ thuật được sử dụng để sản xuất những vụ khí luôn hoàn hảo hơn và có khả năng hủy diệt nhiều hơn, trong khi đó, người ta nại đến một ý thức hệ vốn là một nền triết học đích thực đã bị xuyên tạc, nhằm cung cấp những biện chứng có tính giáo điều cho một cuộc chiến tranh mới. Chiến tranh không chỉ được chờ đợi và chuẩn bị, mà thực sự đang xảy ra tại những miền khác nhau trên thế giới và gây ra những cuộc đổ máu lớn lao. Các văn kiện của Giáo hội và mới đây thông điệp SRS[50]đã tố giác chủ trương phân chia thành các khối hay đế quốc đối nghịch. Chủ trương đó đã phóng đại và khai thác cách có hệ thống những cuộc tranh chấp và những mối bất hòa tại các nước thuộc thế giới thứ ba để gây khó khăn cho đối phương.
Những nhóm cực đoan, là những người tìm cách giải quyết những xung đột trên bằng vũ khí, lợi dụng chỗ dựa về chính trị và quân sự, nên được trang bị vũ khí và huấn luyện về chiến tranh, trong khi những người nỗ lực tìm kiếm những giải pháp hòa bình và nhân bản bằng cách tôn trọng lợi ích hợp pháp của tất cả mọi phe nhóm, lại bị cô lập và trở thành nạn nhân của các phe nhóm đối nghịch. Nền hòa bình bấp bênh sau thế chiến II là một trong những lý do chính của việc quân sự hóa nhiều quốc gia thuộc thế giới thứ ba và những cuộc chiến huynh đệ tương tàn tại những quốc gia đó, sự lan tràn phong trào khủng bố và những hành động ngày càng man rợ hơn của cuộc chiến tranh quân sự, chính trị. Sau cùng, một cuộc chiến tranh nguyên tử đang đe dọa toàn thể thế giới có thể dẫn đến việc hủy diệt nhân loại. Khoa học, khi được sử dụng vào những mục tiêu quân sự, khoa học đã trao vũ khí tuyệt đối cho sự thù hận vốn được khuếch đại bởi các ý thức hệ. Thế nhưng, chiến tranh có thể được kết thúc trong một cuộc tự sát của nhân loại mà không có kẻ thắng người bại, và như thế, phải loại bỏ lối lý luận đưa đến sự tự sát trên, tức là ý tưởng cho rằng đấu tranh tiêu diệt đối phương, sự mâu thuẫn và cả chiến tranh nữa là những yếu tố làm nên sự tiến bộ và đưa lịch sử tiến lên phía trước[51]. Nếu người ta chấp nhận sự loại bỏ đó là cần thiết, thì sự lý luận về “cuộc chiến tranh toàn diện” cũng như về “sự đấu tranh giai cấp” cần thiết phải được xét lại.
19. Hậu quả của chiến tranh
Nhưng vào cuối thế chiến II, một tiến trình như thế vẫn đang thành hình trong tâm trí con người, và sự kiện đáng chú ý là sự bành trướng của chế độ chuyên chế cộng sản trên hơn một nửa Châu Âu và một phần thế giới. Chiến tranh, lẽ ra phải tái lập tự do và khôi phục quyền lợi của các dân tộc, thì lại kết thúc mà không đạt được những mục tiêu ấy, nhưng ngược lại hiển nhiên phản lại các mục tiêu ấy đối với nhiều dân tộc, nhất là những dân tộc đã phải chịu đựng nhiều nhất trong chiến tranh. Có thể nói rằng, tình trạng như vậy đã gợi lên những phản ứng khác nhau.
Trong một số quốc gia và theo một vài quan điểm, người ta tham gia vào một nỗ lực tích cực nhằm tái thiết, sau những hủy diệt của chiến tranh, một xã hội dân chủ được gợi hứng bởi công bình xã hội, làm cho chủ nghĩa cộng sản mất đi tiềm lực cách mạng phát xuất từ đám người bị bóc lột và áp bức. Cách chung những cố gắng này tìm cách duy trì những bộ máy của thị trường tự do bằng cách bảo đảm những điều kiện của một sự tiến triển kinh tế vững chắc và lành mạnh, nhờ sự ổn định tiền tệ và an toàn trong những tương quan xã hội, nhờ đó con người có thể dùng lao động mà kiến tạo một tương lai tốt đẹp cho chính mình và cho con cái. Đồng thời, người ta tìm cách để những cơ cấu thị trường không còn là điểm quy chiếu duy nhất của đời sống xã hội, và người ta muốn bắt những bộ máy ấy phải phục tùng sự kiểm soát công khai được gợi hứng từ nguyên tắc của cải trần thế được dành cho mọi người. Công ăn việc làm dồi dào, hệ thống an ninh xã hội vững chắc, huấn nghệ, tự do lập hội và hoạt động mạnh mẽ của các nghiệp đoàn, sự bảo trợ xã hội trong trường hợp thất nghiệp, những phương tiện tham gia dân chủ vào đời sống xã hội, tất cả những điều ấy, trong bối cảnh như thế làm cho lao động tránh khỏi hoàn cảnh trở thành một “hàng hóa” và bảo đảm khả năng hoàn thành lao động cách xứng đáng.
Thứ đến, còn những thế lực xã hội khác và những trường phái tư tưởng khác chống lại thuyết Mác – xít bằng việc thiết lập những hệ thống “an ninh quốc gia”, những hệ thống này kiểm soát chặt chẽ toàn thể xã hội, để ngăn cản sự xâm nhập của chủ thuyết Mác – xít. Bằng cách đề cao và gia tăng quyền lực của nhà nước, những chế độ đó cố gắng bảo vệ dân tộc mình khỏi chủ nghĩa cộng sản, nhưng, khi thực hiện việc đó, họ gặp phải nguy cơ trầm trọng là tiêu hủy tự do và những giá trị của con người qua danh nghĩa chống cộng.
Sau cùng, một hình thức đáp ứng thực tiễn khác được đại diện bởi xã hội sung túc, hay xã hội tiêu thụ. Hình thức này cố gắng vượt chủ thuyết Mác–xít trên lãnh vực hoàn toàn duy vật, chứng tỏ rằng một xã hội thuộc thị trường tự do có thể làm thỏa mãn những nhu cầu vật chất cách hoàn hảo hơn là chủ nghĩa cộng sản đã đảm bảo, nhưng đồng thời lại loại bỏ những giá trị thiêng liêng. Trong thực tế, một phần, nếu thực sự, kiểu mẫu xã hội này cho thấy thuyết Mác-xít không có khả năng kiến tạo một xã hội mới và tốt đẹp hơn, phần khác, khi chối từ đạo đức, quyền lợi, văn hóa và tôn giáo có thực tại và giá trị riêng của mình, kiểu mẫu xã hội này cũng giống thuyết Mác-xít khi hoàn toàn giản lược con người vào lãnh vực kinh tế và sự thỏa mãn những nhu cầu vật chất.
20. Chấm dứt chế độ thuộc địa.
Cũng trong thời gian này diễn ra một tiến trình gây xúc động là “việc chấm dứt chế độ thuộc địa”, nhờ đó nhiều quốc gia đạt được hay tái lập nền độc lập và chủ quyền tự quyết về chính mình. Tuy nhiên, với việc chính thức chinh phục lại uy quyền tối thượng của quốc gia, những quốc gia này thường mới chỉ ở khởi điểm của con đường xây dựng một nền độc lập thực sự. Thật vậy, những lãnh vực kinh tế có tính quyết định vẫn còn nằm trong tay những xí nghiệp lớn của ngoại quốc, những xí nghiệp này không chấp nhận liên kết bền vững với việc phát triển của quốc gia đã tiếp đón họ, và chính sinh hoạt chính trị vẫn còn bị các thế lực ngoại bang kiểm soát, đang khi đó bên trong biên giới quốc gia, vẫn còn có những nhóm chủng tộc chưa hội nhập hoàn toàn vào một cộng đồng quốc gia đích thực. Ngoài ra, còn thiếu một tập thể những công chức tài năng, có khả năng quản trị guồng máy quốc gia cách đúng đắn và công bằng, đồng thời cũng thiếu cán bộ quản lý kinh tế hữu hiệu và có trách nhiệm.
Bài này đã được xem 793 lần!