Trong hoàn cảnh đó, nhiều người nghĩ rằng thuyết Mác–xít có thể cống hiến một con đường tắt để xây dựng dân tộc và quốc gia, và do đó đã thấy xuất hiện những mẫu xã hội chủ nghĩa có đặc tính quốc gia riêng biệt. Những mẫu này hòa lẫn với nhiều ý thức hệ được hình thành cách khác nhau tùy trường hợp: những đòi hỏi chính đáng của việc bảo vệ quốc gia, những hình thức của chủ nghĩa quốc gia, và cả của chế độ quân phiệt, những nguyên tắc rút ra từ những nền văn hóa dân gian cổ truyền, đôi khi phù hợp với học thuyết xã hội của kitô giáo, và những quan điểm của thuyết Mác–xít Lê–nin–nít.
21. Tổ chức Liên Hiệp quốc.
Cuối cùng cần phải nhắc lại là sau thế chiến thứ II, và cũng để phản ứng chống lại những điều khủng khiếp của nó, đã phổ biến một tâm thức mạnh hơn về quyền con người, tâm thức này đã được nhìn nhận trong nhiều văn kiện quốc tế khác nhau[52] và có thể nói, trong việc kiến tạo một luật pháp quốc tế về quyền con người. Nòng cốt của sự phát triển đó là tổ chức Liên Hiệp Quốc. Không chỉ có ý thức về quyền của cá nhân được phát triển, mà cả ý thức về quyền của các quốc gia, trong khi đó người ta thấy rõ hơn cần phải hành động để đem lại phương thức giải quyết những bất quân bình trầm trọng giữa những vùng địa dư khác nhau trên thế giới, mà theo một nghĩa, những bất quân bình này đã chuyển trọng tâm vấn đề xã hội từ bối cảnh quốc gia sang bình diện quốc tế [53].
Trong lúc hài lòng về sự phát triển này, người ta cũng không thể bỏ quên sự kiện là bản tổng kết toàn bộ những chính sách viện trợ khác nhau cho việc phát triển không luôn luôn có tính cách tích cực. Ngoài ra, tại Liên Hiệp Quốc cho đến nay, người ta vẫn chưa thành công trong việc tạo ra những cách thức hữu hiệu, ngoài chiến tranh, để giải quyết những xung đột quốc tế, và có lẽ đây là vấn đề cấp bách nhất mà cộng đồng quốc tế vần phải giải quyết.
CHƯƠNG III: NĂM 1989
22. Vai trò của Giáo hội
Căn cứ vào tình hình thế giới như chúng tôi vừa mô tả và đã được trình bày cặn kẽ trong thông điệp SRS, chúng ta mới hiểu được tầm quan trọng bất ngờ và đầy hứa hẹn của các biến cố xảy ra trong những năm gần đây. Mặc dù các biến cố đó rõ rệt đạt tới cao điểm vào năm 1989 tại các quốc gia ở Trung và Đông âu, nhưng chúng còn bao trùm cả một thời gian và không gian rộng hơn. Vào những năm 80, tại nhiều quốc gia ở Châu Mỹ La tinh cũng như Châu Phi và Châu âu người ta chứng kiến những chế độ độc tài và áp bức lần lượt sụp đổ. Những trường hợp khác lại là mở đầu cho một chuyển biến, tuy khó khăn nhưng hiệu quả, hướng tới các chính thể đề cao sự cộng tác và công lý nhiều hơn. Giáo hội đã góp phần quan trọng, thậm chí có tính quyết định qua thái độ cổ võ bảo vệ việc thăng tiến nhân quyền tại những môi trường chịu ảnh hưởng sâu đậm của một hệ tư tưởng, trong đó những lập trường triệt để làm lu mờ ý thức chung về phẩm giá con người, thì Giáo hội khẳng định rõ ràng và mạnh mẽ rằng, mỗi người dù xác tín cá nhân thế nào đi nữa, vẫn mang nơi mình hình ảnh Thiên Chúa, và như vậy họ đáng được tôn trọng. Đại đa số dân chúng thường chấp nhận khẳng định này, và điều đó đưa đến việc tìm kiếm những hình thức đấu tranh và những giải pháp chính trị tôn trọng phẩm giá con người hơn.
Từ tiến trình lịch sử đó phát sinh những hình thức dân chủ mới đem lại hy vọng một sự thay đổi trong những cơ cấu chính trị và xã hội bấp bênh, đang gánh chịu hàng loạt những đau khổ do vô số bất công và hận thù, thêm vào đó là một nền kinh tế thảm hại và những xung đột xã hội gay gắt. Cùng toàn thể Giáo Hội, chúng tôi cảm tạ Thiên Chúa vì những chứng tá đôi khi rất anh dũng của nhiều mục tử, nhiều cộng đoàn kitô giáo cũng như nhiều tín hữu, và nhiều người thiện chí khác đã nêu lên trong những hoàn cảnh khó khăn đó; tôi nguyện xin Chúa nâng đỡ những nỗ lực của mọi người nhằm xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Thực tế, đó là trách nhiệm không những của các công dân trong các quốc gia nói trên, mà còn là của tất cả mọi kitô hữu và những người thiện chí. Điều đó chứng tỏ rằng những vấn đề phức tạp nơi các dân tộc đó có thể giải quyết được thông qua đối thoại và liên đới, mà không cần đến tranh đấu để triệt tiêu đối phương, cũng chẳng cần đến chiến tranh.
23. Sự sụp đổ của các chế độ áp bức.
Trong số các nhân tố làm cho các chế độ áp bức bị sụp đổ có những nhân tố đáng được nhắc đến đặc biệt. Chắc chắn, nhân tố có tính cách quyết định đưa đến những thay đổi, đó là sự vi phạm quyền lao động. Không nên quên rằng cuộc khủng hoảng cơ bản của các hệ thống chính trị tự coi mình là đại diện cho giới thợ thuyền để nắm quyền cai trị, kể cả nền chuyên chính của giới công nhân, bắt đầu từ những phong trào lớn ở Balan dưới danh nghĩa đoàn kết. Chính quần chúng công nhân là những người đã khai trừ tính hợp pháp của hệ tư tưởng cho là mình phát biểu nhân danh họ, và từ kinh nghiệm sống động và cực khổ trong lao động và áp bức, chính họ là những người tìm lại được hầu như tái khám phá những phát biểu và những nguyên tắc trong học thuyết xã hội của Giáo hội.
Một sự kiện khác cần nhấn mạnh, đó là hầu như khắp nơi người ta có thể làm cho một “khối” hay một đế quốc đi đến chỗ sụp đổ bằng những cuộc đấu tranh ôn hòa chỉ dùng sự thật và công lý làm khí giới. Trong khi thuyết Mác–xít cho rằng chỉ cần đẩy những mâu thuẫn xã hội lên đến cực điểm là có thể giải quyết được những mâu thuẫn ấy bằng một cuộc đối đấu quyết liệt thì những cuộc đấu tranh đưa thuyết Mác–xít đến chỗ sụp đổ, đều kiên trì sử dụng tất cả những đường lối thương lượng, đối thoại và làm chứng cho sự thật, kêu gọi lương tri của đối phương, và tìm cách thức tỉnh nơi họ ý thức chung về phẩm giá con người.
Cứ theo bề ngoài thì chỉ có một cuộc chiến tranh khác mới có thể đảo lộn trật tự ở Âu Châu có từ thế chiến thứ hai, và đã được hiệp ước Ya-va phê chuẩn. Thế nhưng, điều đó đã không cần nữa, nhờ hoạt động bất bạo động của những người, dù không bao giờ chịu khuất phục bạo lực, nhưng vẫn biết tìm ra trong mọi trường hợp đường lối hiệu nghiệm minh chứng cho sự thật. Điều đó đã vô hiệu hóa đối phương, vì bạo lực bao giờ cũng dùng dối trá để biện minh cho mình, và làm bộ, kể cả giả dối, là bảo vệ quyền lợi hay đối phó với mọi đe dọa của người khác[54]. Một lần nữa chúng tôi tạ ơn Thiên Chúa đã nâng đỡ tâm hồn con người giữa những thử thách khó khăn, và cũng nguyện xin cho gương mẫu đó được phổ biến ở những miền khác và trong những hoàn cảnh khác. Ước mong con người học biết đấu tranh cho công lý mà không cần đến bạo động, bằng cách từ khước đấu tranh giai cấp trong những xung đột nội bộ, và từ khước chiến tranh trong những xung đột quốc tế.
24. Những nguyên nhân của sự sụp đổ này.
Nhân tố thứ hai gây ra khủng hoảng chắc chắn là do hệ thống kinh tế thiếu hiệu năng, và không nên coi đây chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà đúng hơn, là hệ quả của sự vi phạm nhân quyền: quyền có sáng kiến, quyền tư hữu và quyền tự do trong lãnh vực kinh tế. Thêm vào đó là chiều kích văn hóa và quốc gia: không thể hiểu biết con người, nếu chỉ dựa trên lãnh vực kinh tế, cũng như không thể xác định con người là gì nếu chỉ căn cứ vào việc họ thuộc về một giai cấp nào đó. Ta hiểu biết con người một cách hoàn hảo hơn, nếu đặt con người vào trong bối cảnh văn hóa của họ, bằng cách lưu ý đến ngôn ngữ, lịch sử của họ, quan điểm của họ trước các biến cố nền tảng của đời sống, chẳng hạn như việc chào đời, tình yêu, lao động, sự chết. Trọng tâm của mọi nền văn hóa là thái độ của con người khi đối diện với mầu nhiệm vô cùng lớn lao: mầu nhiệm Thiên Chúa. Tự căn bản, những nền văn hóa khác nhau của các dân tộc là những cách thức khác nhau để giải quyết vấn đề ý nghĩa cuộc nhân sinh. Nếu loại bỏ vấn đề này, thì nền văn hóa và đời sống luân lý của các quốc gia sẽ bị băng hoại. Vì thế, cuộc đấu tranh bảo vệ lao động tự nó liên kết với cuộc đấu tranh cho nền văn hóa và quyền lợi quốc gia.
Tuy nhiên nguyên nhân đích thực của những điều mới mẻ đó là sự trống rỗng tâm linh do chủ thuyết vô thần gây ra, chủ thuyết này bỏ mặc những thế hệ trẻ trong tình trạng vô phương hướng, và thường đưa họ – trong khi tất yếu phải tìm kiếm căn tính và ý nghĩa cuộc đời của mình – đến chỗ tái khám phá cội rễ tôn giáo trong nền văn hóa quốc gia của họ, thậm chí nhận ra được chính con người Đức Kitô, như một câu trả lời đáp ứng một cách hiện thực lòng khao khát chân lý và sự sống vốn có nơi thâm tâm con người. Sự tìm kiếm đó được khích lệ nhờ chứng tá của những người – dù trong hoàn cảnh khó khăn và bị ngược đãi – vẫn giữ lòng trung thành với Thiên Chúa. Thuyết Mác–xít quyết tâm tiêu diệt khát vọng về Thiên Chúa nơi con người, nhưng kết quả cho thấy không thể làm như thế mà không làm cho tâm hồn con người xáo trộn.
25. Cuộc giao tranh giữa thiện và ác.
Các biến cố xảy ra trong năm 1989 là một thí dụ nói lên thành công của chủ trương dùng đường lối thương thuyết và tinh thần Tin Mừng trước một đối phương nhất định bất chấp các nguyên tắc luân lý. Các biến cố đó là một lời cảnh tỉnh cho những ai nhân danh chủ nghĩa hiện thực chính trị, muốn loại trừ luật pháp và luân lý ra khỏi lãnh vực chính trị. Chắc chắn cuộc tranh đấu dẫn đến các đổi thay trong năm 1989 đòi phải có sự sáng suốt, ôn hòa đau khổ và hy sinh; theo một nghĩa nào đó, cuộc tranh đấu ấy phát sinh từ cầu nguyện, và có lẽ không thể nghĩ tới nếu không có niềm tín thác vô biên vào Thiên Chúa, Chúa tể của lịch sử, Đấng làm chủ cõi lòng con người. Chính vì biết liên kết những đau khổ của riêng mình trong việc tìm kiếm chân lý và tự do, với đau khổ của Đức Kitô trên thập giá mà con người có thể thực hiện được phép lạ hòa bình, và có khả năng khám phá ra con đường, thường là chật hẹp, giữa một bên là sự hèn nhát muốn đầu hàng sự dữ, và một bên là bạo lực tưởng là chiến đấu chống lại sự dữ, nhưng kỳ thực chỉ làm cho sự dữ thêm trầm trọng.
Tuy nhiên, không thể không biết đến vô số hoàn cảnh chi phối cá nhân trong việc sử dụng tự do để hành động; chắc chắn những hoàn cảnh ấy tác động đến tự do, nhưng không định đoạt tự do. Chúng gây khó dễ cho việc sử dụng tự do, nhưng không thể hủy diệt tự do. Theo quan điểm đạo đức, không những người ta không được coi thường bản chất con người vốn được tạo dựng nên để hưởng tự do, mà trên thực tế, cũng không thể làm như vậy được. Ở đâu xã hội được tổ chức theo kiểu tùy tiện hạn chế hoặc thậm chí tước bỏ bầu khí thể hiện tự do một cách hợp pháp, thì kết quả là đời sống xã hội dần dần tan rã và đi đến chỗ suy xụp.
Hơn nữa, tuy được sáng tạo để hưởng tự do, nhưng con người lại mang nơi bản thân mình thương tích của tội nguyên tổ luôn luôn lôi kéo con người hướng về điều ác, vì thế con người cần đến ơn cứu độ. Giáo lý này không những là một thành phần toàn vẹn trong mạc khải kitô giáo, mà còn có giá trị quan trọng để khám phá chân lý, vì giúp ta hiểu được thực tại con người. Con người hướng về điều thiện, nhưng cũng có thể làm điều ác. Con người có thể vượt lên trên lợi lộc trước mắt, mà vẫn gắn bó với nó. Trật tự xã hội càng được ổn định, khi càng lưu ý đến sự kiện này, và không đặt quyền lợi cá nhân đối nghịch với quyền lợi xã hội xét như đoàn thể, nhưng đúng hơn tìm cách hòa hợp với quyền lợi xã hội một cách hiệu quả. Thật vậy, nơi đâu quyền lợi cá nhân bị xã hội tước đoạt, thì thay vào đó là một chế độ hà khắc nắm quyền kiểm soát một cách quan liêu, làm cạn kiệt nguồn sáng kiến và sáng tạo. Khi người ta nghĩ rằng mình nắm được bí quyết tổ chức một xã hội hoàn hảo không còn điều ác thì họ cũng tưởng là có thể sử dụng mọi phương tiện, kể cả bạo lực và lừa dối, để thực hiện tổ chức đó. Khi ấy chính trị trở thành một thứ “tôn giáo thế tục”, có tham vọng xây dựng thiên đàng ngay ở trần gian này. Nhưng không có một xã hội chính trị nào có quyền tự quyết và pháp luật của mình[55], lại có thể lẫn lộn với Vương Quốc của Thiên Chúa. Trong Tin mừng, dụ ngôn hạt giống tốt và cỏ lùng (xc Mt 13,24-30.36-43) dạy rằng chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tách biệt những thần dân của Nước Trời khỏi những tôi tớ của ác thần, và điều phân xử ấy sẽ xảy ra vào ngày thế mạt. Ngay lúc này, nếu tự cho mình là người có quyền phán xét ấy, thì con người đã tiếm quyền Thiên Chúa và chống lại sự kiên nhẫn của Người.
Nhờ hy lễ của Đức Kitô trên thập giá, chiến thắng của Nước Thiên Chúa đã thành tựu một lần và có giá trị mãi mãi. Tuy nhiên, người kitô hữu vẫn phải chiến đấu chống lại cám dỗ và sức mạnh của sự dữ. Chỉ khi nào lịch sử kết thúc Chúa mới trở lại trong vinh quang để phán xét lần cuối cùng (x. Mt 25,31), và thiết lập trời mới đất mới (x. 2Pr 3,13; Kh 21,1). Nhưng bao lâu còn thời gian, cuộc chiến giữa thiện và ác vẫn còn tiếp diễn ngay trong tâm hồn con người.
Những gì Kinh thánh dạy cho ta biết về thiên chức của nước Thiên Chúa không phải là không có hệ quả đối với đời sống các xã hội trần thế, những xã hội này – như tên gọi – thuộc về những thực tại trong thời gian, và vì thế, bất toàn và tạm thời. Nước Thiên Chúa hiện diện trong thế gian và không thuộc về thế gian, nước ấy soi sáng trật tự con người, trong khi sức mạnh ân sủng thấm nhập và làm cho trật tự đó sống động. Như thế, một khi hiểu rõ những đòi hỏi của một xã hội xứng đáng với con người, thì sửa chữa được những sai lầm, tăng cường lòng can đảm hành động vì điều thiện. Cùng với các người thiện chí, các kitô hữu, nhất là giáo dân, được kêu gọi thi hành trách vụ làm cho tin mừng sinh động nơi thực tại của con người.[56]
26. Giáo hội và phong trào thợ thuyền.
Các biến cố trong năm 1989 chủ yếu xảy ra ở các nước Đông và Trung Âu. Tuy nhiên, các biến cố đó cũng có tầm mức hoàn cầu vì đem lại những hệ quả tích cực lẫn tiêu cực liên quan đến toàn thể gia đình nhân loại. Những hệ quả này không có tính cách máy móc hay tất định, nhưng đúng hơn là những cơ hội để từ đó nhân loại cộng tác với ý định thương xót của Thiên Chúa, Đấng hành động trong lịch sử.
Tại một số quốc gia, hệ quả đầu tiên là sự gặp gỡ giữa Giáo hội và phong trào thợ thuyền phát sinh từ phản ứng trong lãnh vực luân lý và rõ rệt có tính cách kitô giáo, chống lại tình trạng bất công lan tràn. Khoảng một thế kỷ nay, phong trào này phần nào đã rơi vào quyền thống trị của thuyết Mác–xít, họ xác tín rằng để đấu tranh chống áp bức một cách hữu hiệu, giai cấp vô sản phải chấp nhận những lý thuyết duy vật và duy kinh tế của chủ thuyết ấy.
Trong cuộc khủng hoảng của thuyết Mác–xít, lại nói lên tiếng nói tự nhiên của lương tâm thợ thuyền đòi hỏi công lý và nhìn nhận phẩm giá của lao động phù hợp với học thuyết xã hội của Giáo hội [57]. Phong trào thợ thuyền trở thành một phong trào rộng lớn hơn của những người lao động và những người thiện chí, nhằm giải phóng con người và khẳng định quyền con người; ngày nay phong trào ấy lan tràn tại nhiều quốc gia và thay vì chống lại Giáo hội công giáo, lại quan tâm nhìn về Giáo hội.
Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa Mác–xít không loại trừ khỏi thế giới những tình trạng bất công và áp bức mà chính chủ thuyết này đã khai thác và lợi dụng. Hiện nay, với những người tìm kiếm một lý thuyết và một thực hành giải phóng mới mẻ và đích thực, không những Giáo hội cung cấp cho họ giáo thuyết xã hội, và một cách tổng quát giáo huấn của Giáo hội về con người được Đức Kitô cứu chuộc, mà còn dấn thân và đóng góp cụ thể vào cuộc chiến đấu chống lại sự kỳ thị và đau khổ.
Bài này đã được xem 797 lần!