THÔNG ĐIỆP CENTESIMUS ANNUS (BÁCH CHU NIÊN)

Trong quá khứ gần đây, khát vọng chân thành muốn đứng về phía những kẻ bị áp bức, và không muốn bị cắt rời khỏi dòng lịch sử, đã khiến nhiều tín hữu dùng những cách thức khác nhau để tìm kiếm một thỏa hiệp ảo tưởng giữa chủ nghĩa Mác–xít và Kitô giáo. Giai đoạn hiện tại đã vượt thắng tất cả những gì là lỗi thời trong những cố gắng này đồng thời khuyến khích tái khẳng định giá trị tích cực của một nền thần học đích thực nhằm giải phóng toàn diện con người [58].  Xét dưới góc độ này, các biến cố 1989 tỏ ra cũng quan trọng đối với các nước thế giới thứ ba, là những nước đang tìm kiếm con đường phát triển riêng, cũng như đối với các quốc gia Trung và Đông Âu.

27.   Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc.

Hệ quả thứ hai có liên quan đến chính các dân tộc Châu Âu. Người ta đã vi phạm nhiều bất công ở cấp độ cá nhân, xã hội, khu vực quốc gia, trong và cả trước những năm chủ nghĩa cộng sản thống trị; người ta đã tích lũy biết bao sự thù nghịch và căm hờn. Sau khi chế độ độc tài sụp đổ, những điều ấy có nguy cơ bùng nổ mạnh kèm theo bạo lực gây nên những xung đột trầm trọng và những tang tóc, nếu thiếu nỗ lực đạo đức và lòng dũng cảm để làm chứng cho chân lý một cách có ý thức, những đức tính đã nuôi dưỡng những cố gắng trong quá khứ. Ước chi sự thù nghịch và bạo lực không còn thống trị trong các tâm hồn, nhất là nơi những người đấu tranh cho công lý, và ước chi mọi dân tộc sẽ lớn lên trong tinh thần hòa bình và tha thứ.

Nhưng phải biện pháp cụ thể để kiến tạo hoặc để củng cố những cơ cấu quốc tế có khả năng can thiệp, bằng cách phân xử thích đáng những xung đột giữa các quốc gia, sao cho mỗi quốc gia có thể giữ gìn quyền lợi riêng của mình và tiến tới một hiệp định công bằng cũng như một sự dàn xếp hòa bình đối với quyền lợi của các quốc gia khác. Điều này đặc biệt cần thiết cho các quốc gia Châu Âu, vốn hiệp nhất một cách mật thiết trong mối dây liên hệ văn hóa chung và một lịch sử đã có hàng nghìn năm. Cần phải có một cố gắng lớn lao để tái thiết về luân lý và kinh tế cho những quốc gia đã từ bỏ chủ nghĩa cộng sản. Trong một thời gian dài, những tương quan kinh tế rất cơ bản đã bị bóp méo và cả những đức tính nền tảng trong đời sống kinh tế, như lương thiện, tín nhiệm thích đáng hăng say làm việc đều bị coi thường. Cần phải kiên trì tái thiết vật chất và luân lý, đương lúc các dân tộc đã kiệt quệ vì bị bóc lột lâu dài đang đòi hỏi nơi chính quyền những kết quả trông thấy và tức khắc cho họ được thoải mái sung túc, cũng như thỏa mãn những khát vọng hợp pháp của họ.

Thất bại của chủ nghĩa xã hội tự nhiên tác động lớn lao trong những gì liên quan đến việc phân chia hành tinh thành những thế giới đóng kín đối nghịch nhau trong sự cạnh tranh hiềm khích. Điều đó càng làm nổi bật thực tại phụ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc, cũng như sự kiện lao động của con người tự bản chất là để hợp nhất, chứ không phải là để phân rẽ các dân tộc. Thực vậy, hòa bình và thịnh vượng là những thiện hảo thuộc về toàn thể nhân loại, đến nỗi không thể hưởng những cái đó một cách chính đáng và lâu dài nếu người ta dành được, và duy trì bằng cách gây thiệt hại cho các dân tộc hay các quốc gia khác, bằng cách xâm phạm đến quyền lợi của họ, hoặc bằng cách loại trừ họ khỏi những nguồn phúc lợi.

 

28.   Sự giúp đỡ đối với Đông Âu và thế giới thứ ba.

Đối với một số quốc gia Châu Âu, thì, theo một nghĩa nào đó, đúng là bắt đầu một thời kỳ hậu chiến. Việc sắp đặt lại từ căn bản những hệ thống kinh tế cho đến lúc đó vẫn còn tập thể hóa, tạo nên các khó khăn, và đòi hỏi nhiều hy sinh, có thể sánh được với hy sinh mà các quốc gia Tây Âu đã phải đương đầu để tái thiết đất nước sau thế chiến thứ II. Trong những khó khăn hiện nay, điều công bằng là các quốc gia trước kia theo chủ nghĩa cộng sản phải được nâng đỡ bởi nỗ lực liên đới của các quốc gia khác. Hiển nhiên, chính họ phải là những tác nhân đầu tiên trong việc phát triển quốc gia, nhưng phải cho họ cơ may hợp lý để hoàn thành mục tiêu đó, điều không thể xảy ra được nếu các quốc gia khác không giúp đỡ họ. Đàng khác, hoàn cảnh hiện tại, nổi bật với các khó khăn và thiếu thốn, là kết quả của một tiến trình lịch sử trong đó các quốc gia trước kia theo chủ nghĩa cộng sản thường là nạn nhân, chứ không phải là những người có trách nhiệm; bởi vậy họ lâm vào hoàn cảnh hiện tại không phải vì tự do lựa chọn hay lầm lỗi, nhưng là vì những biến cố lịch sử bi thảm đã áp đặt trên họ một cách thô bạo, và cản trở họ theo đuổi những con đường phát triển kinh tế và xã hội.

 

Sự giúp đỡ của các quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia Châu Âu là những quốc gia có cùng một lịch sử và cùng gánh chịu trách nhiệm về lịch sử đó, biểu thị một món nợ phải trả theo lẽ công bằng. Nhưng sự trợ giúp đó cũng đáp ứng lợi ích và thịnh vượng chung của toàn thể Châu Âu, vì Châu Âu không thể sống trong hòa bình, nếu những cuộc xung đột khác nhau bộc phát như kết quả của quá khứ, lại trở nên gay gắt hơn do tình trạng mất ổn định về kinh tế, bất mãn tâm linh và thất vọng.

Tuy nhiên một đòi hỏi như thế không được đưa đến một sự giảm bớt những cố gắng nâng đỡ các quốc gia thuộc thế giới thứ ba, là những quốc gia đang phải chịu đựng những hoàn cảnh thiếu thốn và nghèo khó nặng nề hơn[59]. Điều cần thiết, đó là một nỗ lực phi thường để huy động các nguồn tài nguyên mà toàn thể thế giới không thiếu, nhằm tăng tiến kinh tế và phát triển chung, bằng cách tái xác định những ưu tiên và những bậc thang giá trị, dựa vào đó người ta sẽ quyết định chọn lựa kinh tế và chính trị. Những nguồn tài nguyên bao la có thể đem ra sử dụng nhờ việc giải trừ vũ khí của những bộ máy quân sự khổng lồ được xây dựng cho cuộc đối đầu giữa Đông và Tây. Những nguồn tài nguyên đó có thể còn dồi dào hơn nữa, nếu thay vì chiến tranh, người ta thiết lập những đường lối đáng tin cậy, để giải quyết những xung đột, rồi phổ cập nguyên tắc kiểm soát và giải trừ vũ khí, cả ở các nước thuộc thế giới thứ ba, bằng cách ấn định những hạn chế cần thiết chống lại việc mua bán vũ khí[60]. Nhưng nhất là phải từ bỏ não trạng coi người nghèo – cá nhân lẫn dân tộc – như một gánh nặng, như những kẻ quấy rầy phiền phức, chỉ biết tiêu thụ những gì người khác sản xuất được. Những người nghèo đòi hỏi quyền có phần trong những của cải vật chất và quyền phát triển khả năng lao động của họ để kiến tạo một thế giới công bằng hơn và thịnh vượng hơn cho mọi người. Sự tiến bộ của người nghèo là một cơ may quan trọng cho sự phát triển luân lý, văn hóa và cả kinh tế của toàn thể nhân loại.

29.   Một sự phát triển con người toàn diện.

Cuối cùng không nên chỉ hiểu sự phát triển trong lãnh vực kinh tế, nhưng còn trong ý nghĩa con người toàn diện[61]. Vấn đề không phải là chỉ nâng cao các dân tộc lên trình độ mà các quốc gia giàu có hiện đang hưởng, nhưng đúng hơn là xây dựng – bằng lao động liên đới – một đời sống xứng đáng hơn, là thực sự làm tăng trưởng phẩm giá và tính sáng tạo của mọi người, cũng như khả năng đáp trả ơn gọi của mỗi người và cũng là lời kêu mời của Thiên Chúa. Tột đỉnh của sự phát triển là việc thực hiện quyền và bổn phận tìm kiếm Thiên Chúa, nhận biết Người và sống theo sự hiểu biết này[62]. Trong các chế độ độc tài và chuyên quyền, người ta đã đẩy nguyên tắc đề cao sức mạnh hơn lý trí lên tới cực điểm. Con người miễn cưỡng chấp nhận một quan niệm về thực tại do sức mạnh áp đặt, chứ không phải đạt được bằng nỗ lực của lý trí và quyền sử dụng tự do của mình. Cần phải đảo ngược nguyên tắc này và nhìn nhận toàn diện những quyền lợi của lương tâm nhân loại, lương tâm này chỉ lệ thuộc chân lý tự nhiên và chân lý mạc khải. Nền tảng đầu tiên của toàn bộ trật tự chính trị tự do đích thực nằm trong chính sự nhìn nhận những quyền lợi này[63]. Điều quan trọng là tái khẳng định nguyên tắc này, vì những lý do sau đây:

  1. Những thể thức độc tài và chuyên quyền cũ chưa bị triệt hạ hoàn toàn và vẫn còn nguy cơ là những thể thức đó sẽ phục hồi được sức mạnh: tình trạng này đòi hỏi một cố gắng mới trong việc cộng tác và liên đới giữa tất cả các quốc gia.
  2. Tại những quốc gia phát triển, đôi khi người ta truyền bá một cách quá đáng những giá trị thuần túy thực dụng, bằng cách kích thích bản năng và khuynh hướng hưởng thụ trực tiếp, điều này làm cho việc nhận thức và kính trọng phẩm trật những giá trị thực sự của đời sống con người trở nên khó khăn.

 

  1. Trong một số quốc gia xuất hiện những hình thức mới của chủ trương bảo thủ tôn giáo, những hình thức này úp mở hoặc công khai từ chối chấp nhận cho các công dân có một niềm tin khác với đa số quần chúng được thực thi đầy đủ các quyền công dân hoặc tôn giáo của họ, ngăn cấm họ tham dự vào các cuộc tranh luận văn hóa, hạn chế quyền của Giáo hội được rao giảng Tin mừng, và quyền của con người được đón nhận lời đã được nghe và trở lại với Đức Kitô. Không thể có sự tiến bộ đích thực nào nếu không tôn trọng quyền tự nhiên căn bản là nhận thức chân lý và sống theo chân lý. Việc thực hiện và đào sâu quyền đó bao hàm cả quyền khám phá và tự do đón nhận Đức Giêsu Kitô, Đấng là thiện hảo thực sự của con người[64].

 

 

 

CHƯƠNG IV

VẤN ĐỀ TƯ HỮU VÀ CỦA CẢI DÀNH CHO MỌI NGƯỜI

30.   Quyền tư hữu và những giới hạn của nó

Trong thông điệp RN, Đức Lêô XIII đã xác quyết mạnh mẽ về tính chất tự nhiên của quyền tư hữu, chống lại chủ nghĩa xã hội thời đó, và Người dựa trên nhiều lý chứng khác nhau[65]. Quyền này có tính cách nền tảng đối với sự tự lập và phát triển của cá nhân, vẫn luôn được Giáo hội bảo vệ cho tới ngày nay. Giáo hội cũng dạy rằng sở hữu các tài sản không phải là quyền tuyệt đối, nhưng trong chính bản chất quyền con người của nó, nó cũng có những giới hạn riêng.

Khi công bố quyền tư hữu, Đức Giáo Hoàng cũng xác quyết rõ ràng rằng việc sử dụng của cải, dù là quyền tự do của con người, nhưng phải tùy thuộc vào mục đích nguyên thủy của nó là được sáng tạo dành cho mọi người và đó cũng là ý muốn của Đức Giêsu Kitô như được diễn tả trong Tin mừng. Quả vậy, Đức Giáo Hoàng đã viết: “Các người giàu có thế gian này được khuyến cáo (…) rằng họ phải run sợ trước những ngăm đe khác mà Đức Giêsu đã đưa ra để chống lại những người giàu; rằng sau cùng sẽ tới một ngày họ sẽ phải trả lẽ gắt gao với Thiên Chúa, là Đấng xét xử họ, về việc sử dụng tài sản của mình”; và trích dẫn thánh Toma, Đức Giáo Hoàng còn thêm: “Nhưng nếu người ta hỏi việc sử dụng của cải hệ tại điều gì, Giáo hội không ngần ngại trả lời: “Về điều này, con người không được coi những của bên ngoài như của riêng, nhưng phải coi là của chung”, bởi vì “bên trên những xét đoán và luật lệ của con người, còn luật lệ và sự xét xử của Đức Giêsu Kitô” [66].

Các Đấng kế vị Đức Lêô XIII cũng đã nhắc lại hai xác quyết đó: – Sự cần thiết và do đó tính hợp pháp của quyền tư hữu, và – quyền tư hữu cũng phải có giới hạn của nó[67]. Công đồng Vatican II cũng đã đưa ra học thuyết truyền thống này bằng những từ ngữ cần phải trích lại nguyên văn như sau: “Khi sử dụng của cải, con người phải coi của cải vật chất mà mình làm chủ một cách chính danh không chỉ như của riêng mình, nhưng còn là của chung nữa: nghĩa là, của cải đó có thể sinh lợi không những cho riêng mình mà còn cho cả người khác nữa”. Sau đó, Công đồng viết: “Quyền tư hữu cũng như quyền làm chủ của cải bảo đảm cho mọi người một lãnh vực cần thiết để cá nhân và gia đình được tự trị; phải coi các quyền đó như sự mở rộng phạm vi quyền tự do của con người (…) Tự bản chất, quyền tư hữu có tính cách xã hội. Tính cách này đặt nền tảng trên định luật của cải dành cho mọi người” [68]. Tôi cũng đã nhắc lại học thuyết này, trước tiên trong diễn văn khai mạc Hội nghị lần thứ III các Giám Mục Châu Mỹ La Tinh tại Puebla, rồi sau đó trong thông điệp LE, và gần đây, trong thông điệp SRS [69].

31.   Mục đích của của cải là phục vụ con người

Khi đọc lại giáo huấn này về quyền tư hữu và về vấn đề mục đích của cải là phục vụ mọi người trong bối cảnh thời đại chúng ta, người ta có thể đặt ra vấn đề về nguồn gốc các của cải đang nâng đỡ đời sống con người, thỏa mãn các nhu cầu con người và là đối tượng của các quyền của họ.

Nguồn gốc đầu tiên của mọi thiện hảo là hành động của chính Thiên Chúa, Đấng đã sáng tạo trái đất và con người, Đấng đã ban trái đất cho con người để con người làm chủ bằng lao động và hưởng thụ các hoa lợi của nó (x. St 1,28-29). Thiên Chúa đã ban trái đất cho cả nhân loại để trái đất nuôi sống mọi phần tử của nhân loại, không loại trừ cũng không dành đặc quyền cho một cá nhân nào. Đó là nguồn gốc của việc sở hữu chung của cải trái đất. Vì chính sự phong nhiêu của trái đất và vì những khả năng của nó thỏa mãn các nhu cầu của con người, trái đất là quà tặng đầu tiên của Thiên Chúa để cho con người được tồn tại. Thế mà, trái đất không nảy sinh hoa trái nếu không có sự đáp ứng đặc biệt của con người đối với ân huệ của Thiên Chúa, nghĩa là nếu không có lao động. Nhờ lao động và nhờ sử dụng trí khôn cũng như tự do của mình, con người thống trị trái đất, biến trái đất thành nơi cư ngụ thích hợp cho mình. Như vậy, con người chiếm hữu một phần đất, phần mà con người dành được do lao động của mình. Đó là nguồn gốc của quyền tư hữu cá nhân. Hiển nhiên con người cũng có trách nhiệm không được cản trở những người khác chiếm hữu được phần của họ từ hồng ân của Thiên Chúa; trái lại, họ phải cộng tác với người khác để cùng nhau thống trị toàn thể trái đất.

Trong lịch sử, hai yếu tố này, lao động và trái đất, luôn có ngay ở khởi đầu của mọi xã hội nhân loại, tuy nhiên giữa hai yếu tố đó, không phải luôn luôn có cùng một quan hệ. Đã có thời sự phong nhiêu tự nhiên của trái đất có vẻ là, và thực sự là yếu tố chính của sự giàu có, trong khi mà lao động, một cách nào đó chỉ là sự trợ giúp và nâng đỡ cho sự phong nhiêu này mà thôi. Vào thời đại chúng ta, vai trò của lao động con người trở thành một yếu tố mỗi ngày một quan trọng hơn trong việc sản xuất ra của cải tinh thần và vật chất; ngoài ra còn thấy rõ ràng lao động của một con người đan kết một cách hết sức tự nhiên với lao động của những người khác. Hơn lúc nào hết, ngày nay, lao động là lao động với người khác và lao động cho người khác: nghĩa là làm cái gì cho ai đó. Việc lao động càng phong phú và sản xuất được nhiều khi con người càng có khả năng nhận biết các nguồn tài nguyên sản xuất của trái đất và nhận ra đâu là những nhu cầu sâu xa của người khác mà mình phục vụ.

32.   Kỹ thuật và kiến thức

Tuy nhiên, ở thời đại chúng ta, có một hình thức tư hữu khác và hình thức này có một tầm quan trọng không kém hình thức tư hữu đất đai: đó là tư hữu về trí thức, kỹ thuật và kiến thức. Sự giàu có của các quốc gia kỹ nghệ hóa dựa trên kiểu tư hữu này nhiều hơn là tư hữu những nguồn lợi tự nhiên.

Người ta đã gợi ra sự kiện con người làm việc với những người khác, khi họ tham dự vào “lao động xã hội”, ngày càng mở rộng thêm những lãnh vực lớn lao hơn. Theo nguyên tắc chung, một người sản xuất ra một đồ vật tức là làm ra vật đó không chỉ để sử dụng cho cá nhân mình, nhưng cũng còn để các người khác có thể sử dụng, sau khi đã trả một giá tương xứng, được thỏa thuận trong thương lượng tự do. Thế mà khả năng nhận ra đúng lúc những nhu cầu của người khác và toàn bộ các yếu tố sản xuất thích ứng nhất để thỏa mãn các nhu cầu ấy chính là một nguồn mạch quan trọng khác của sự giàu có trong xã hội ngày nay. Hơn nữa, có nhiều của cải không thể sản xuất được bằng cách thức thích hợp bằng công việc của một cá nhân, nhưng đòi hỏi sự cộng tác của nhiều người vào cùng một mục tiêu. Tổ chức một nỗ lực sản xuất như vậy, lên chương trình về thời gian, lưu tâm để áp dụng đúng các nhu cầu phải thỏa mãn, chấp nhận những mạo hiểm cần thiết, tất cả những điều đó cũng làm nên một nguồn mạch sự giàu có trong xã hội hiện nay. Như vậy, lao động có tổ chức và sáng tạo, cũng như khả năng sáng kiến và quản trị là những yếu tố có một vai trò luôn hiển nhiên và quyết định hơn[70].

Bài này đã được xem 1148 lần!

Pages ( 6 of 12 ): <1 ... 45 6 78 ... 12>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]