THÔNG ĐIỆP CENTESIMUS ANNUS (BÁCH CHU NIÊN)

Cần phải chú ý nhiều để nhận xét về tiến trình đã đưa ra ánh sáng một cách cụ thể, giáo huấn về con người mà kitô giáo vẫn không ngừng xác quyết. Thực vậy, cùng với trái đất, tài nguyên chính yếu của con người là chính con người. Đó là trí thông minh của con người, nó làm cho con người khám phá được những khả năng sản xuất của trái đất cũng như nhiều cách thức nhờ đó nhu cầu của con người có thể được thỏa mãn. Chính nhờ lao động có điều khiển, trong sự cộng tác liên đới đã giúp tạo nên những cộng đồng lao động mở rộng và đảm bảo hơn để hoàn thành việc biến đổi môi trường tự nhiên và chính môi trường nhân bản. Trong tiến trình này, có những đức tính quan trọng như sự chuyên chăm, nhiệt tâm làm việc, sự khôn ngoan trước các nguy cơ hợp lý phải chấp nhận, sự tín nhiệm xứng đáng và sự trung thành trong các quan hệ hỗ tương, sự cương quyết trong việc thi hành các quyết định khó khăn và đau lòng, nhưng là những quyết định cần thiết cho công việc chung của xí nghiệp và cần thiết để đối đầu với các tình thế hỗn loạn có thể xảy ra.

Việc quản trị hiện nay trong việc kinh doanh bao gồm các khía cạnh tích cực mà nguồn mạch của nó là sự tự do cá nhân được thể hiện trong lãnh vực kinh tế cũng như trong nhiều lãnh vực khác. Thực vậy, kinh tế là một lãnh vực trong nhiều hình thức hoạt động của con người và trong lãnh vực này cũng như trong các lãnh vực khác, luôn có quyền được tự do cũng như nghĩa vụ sử dụng tự do một cách có trách nhiệm. Tuy nhiên, cần phải ghi nhận rằng, có nhiều tính chất khác nhau giữa các khuynh hướng của xã hội hiện tại và của xã hội quá khứ, ngay cả trong thời gian vừa qua. Nếu, ngày trước, yếu tố quyết định việc sản xuất là đất đai, và nếu, sau đó, là yếu tố tư bản, hiểu như là toàn bộ máy móc và các dụng cụ sản xuất, thì ngày nay yếu tố càng lúc càng có tính quyết định lại là chính con người, nghĩa là khả năng hiểu biết của con người thể hiện trong kiến thức khoa học, khả năng tổ chức liên kết và khả năng nắm bắt cũng như thỏa mãn các nhu cầu của người khác.

 

33.   Thế giới thứ ba bị gạt ra bên lề

Tuy nhiên cũng phải vạch rõ các nguy cơ và các vấn đề gắn liền với những mẫu phát triển này. Thực vậy, nhiều người và chắc chắn đó là đa số, ngày nay không có phương tiện để gia nhập một cách hữu hiệu và xứng đáng với con người, vào trong hệ thống doanh nghiệp, trong đó lao động thực sự chiếm một vị trí trọng tâm. Họ không có khả năng đạt được kiến thức căn bản giúp họ thể hiện khả năng sáng tạo và phát triển khả năng của mình, cũng không thể gia nhập vào hệ thống các kiến thức cũng như các mạng lưới thông tin giúp họ được thấy tư cách của mình như được đánh giá và sử dụng. Tóm lại, nếu không bị bóc lột thì họ cũng bị gạt ra bên lề; và sự phát triển kinh tế có thể nói cứ tiếp tục diễn ra ở trên đầu họ, nếu không đi đến chỗ thu hẹp hơn nữa lãnh vực kinh tế sinh tồn của họ trước đây vốn đã hạn hẹp rồi. Những người này không có khả năng đối phó với sự cạnh tranh của các sản phẩm do những phương pháp tồi tàn sản xuất và đáp ứng những nhu cầu mà trước đây họ đã từng đáp ứng trong khuôn khổ những tổ chức truyền thống. Bị quyến rũ do sự giàu có hào nhoáng mà mình không đạt tới được đồng thời bị thúc bách do nhu cầu, những người này đang tràn ngập các thành phố của thế giới thứ ba; tại đây họ thường bị mất gốc về phương diện văn hóa, và sống trong tình trạng tạm bợ cưỡng bách, không có khả năng hội nhập vào xã hội. Trong thực tế người ta không nhìn nhận phẩm giá, cũng như những khả năng tích cực của họ, và đôi khi người ta tìm cách loại bỏ sự hiện diện của họ trong dòng lịch sử, bằng cách áp đặt một số hình thức kiểm soát dân số, ngược với phẩm giá con người.

Nhiều người khác, dù không hoàn toàn bị loại ra bên lề, nhưng phải sống trong những hoàn cảnh mà cuộc chiến đấu sống còn là nhu cầu trên hết, trong khi các đường lối của một chủ nghĩa tư bản thời đầu vẫn còn hoành hành trong một tình trạng mà tính cách “dã man” của nó chẳng hơn gì những thời kỳ đen tối nhất của giai đoạn kỹ nghệ hóa đầu tiên. Trong những trường hợp khác, đất đai vẫn còn là yếu tố trọng tâm của tiến trình kinh tế và những người canh tác đất đai bị cấm chiếm hữu đất đai, họ bị đẩy tới một cuộc sống hầu như nô dịch[71]. Trong những trường hợp như vậy, vào thời đại này cũng như thời của thông điệp RN, quả thực là một sự bóc lột bất nhân. Dù có những thay đổi nghiêm trọng trong những xã hội tiến bộ nhất, các khiếm khuyết của con người trong chủ nghĩa tư bản còn lâu mới biến mất, và hậu quả của nó là vật chất lấn lướt trên con người; hơn nữa, đối với các người nghèo, thêm vào sự khan hiếm của cải vật chất, còn có sự thiếu thốn về hiểu biết và kiến thức, điều này ngăn cản họ thoát ra khỏi tình trạng lệ thuộc nhục nhã.

Đáng tiếc thay phần lớn dân cư ở thế giới thứ ba vẫn còn sống trong những điều kiện như vậy. Tuy nhiên sẽ không còn chính xác nếu hiểu thế giới thứ ba chỉ theo nghĩa địa dư. Trong một số miền và một số thành phần xã hội của “thế giới” này, các tiến trình phát triển đang thể hiện, tập trung không phải trên sự khai thác các tài nguyên vật chất cho bằng trên sự khai thác “tài nguyên con người”.

Cách đây không lâu lắm người ta chủ trương rằng đối với các quốc gia nghèo nhất, sự phát triển giả thiết rằng các quốc gia đó phải tách khỏi thị trường thế giới và chỉ dựa vào năng lực riêng của mình. Kinh nghiệm của những năm gần đây minh chứng rằng các quốc gia tự tách mình ra khỏi những cuộc trao đổi chung trong hoạt động kinh tế ở tầm mức quốc tế đều bị đình trệ và thụt lùi, và các quốc gia hội nhập được vào trong các cuộc trao đổi đó thì tạo được một sự phát triển. Như vậy, hình như vấn đề thiết yếu là gia nhập vào thị trường quốc tế cách bình đẳng, không dựa trên nguyên lý chỉ khai khẩn các nguồn lợi thiên nhiên nhưng trên sự phát triển các tài nguyên con người[72].

Tuy nhiên, một số khía cạnh tiêu biểu của thế giới thứ ba cũng xuất hiện trong các nước đã phát triển, tại các nước này, sự biến đổi không ngừng về cách thế sản xuất và các kiểu tiêu thụ đã làm mất giá trị các kiến thức đã đạt được cũng như các chuyên môn nghề nghiệp vững chắc, điều đó đòi hỏi phải có một nỗ lực liên tục để thích ứng và tái huấn nghệ. Những ai không thể theo được nhịp tiến sẽ dễ dàng bị loại ra ngoài lề như những người lớn tuổi, những người trẻ không có khả năng hội nhập vào đời sống xã hội, cũng như một cách chung, những người yếu kém nhất và đám người được gọi là thế giới thứ tư cũng bị loại ra như vậy. Trong những hoàn cảnh như thế, tình trạng của người phụ nữ vẫn còn rất khó khăn.

34.   Nền kinh tế thị trường

Trong mọi quốc gia cũng như trong các mối quan hệ quốc tế, hình như thị trường tự do là phương tiện thích dụng nhất để phân chia các nguồn lợi và đáp ứng hữu hiệu các nhu cầu cuộc sống. Nhưng điều đó chỉ đúng với các nhu cầu “có thể thanh toán bằng tiền”, vì người ta có khả năng mua sắm, cũng như việc các nguồn lợi “có thể bán được”, có thể đổi lấy nhờ trả một giá chính đáng nào đó. Tuy nhiên có nhiều nhu cầu của con người không thể thỏa mãn được trong thị trường. Đây là một nghĩa vụ nghiêm chỉnh về công bằng và chân lý là làm sao cho các nhu cầu căn bản của con người được thỏa mãn và giúp cho những người phải thiếu thốn không bị diệt vong. Ngoài ra, những người trong cảnh túng quẫn này phải được giúp đỡ để có được những kiến thức, để gia nhập vào hệ thống các mối liên hệ và để họ phát triển năng lực của mình hầu có thể phát triển những khả năng và nguồn vốn cá nhân của mình. Bên trên sự hợp lý của những trao đổi bình đẳng và những hình thức công bằng chi phối các sự trao đổi đó, còn có một món nợ với con người, bởi vì họ là con người, do phẩm giá cao quý của họ. Món nợ này bao gồm một cách không thể tách lìa cái khả năng sống còn và khả năng đem lại một sự đóng góp tích cực cho sự thiện chung của nhân loại.

Các mục tiêu đề ra trong thông điệp RN để tránh hạ thấp lao động của con người và chính con người thành một thứ hàng hóa thuần túy vẫn luôn có giá trị nguyên vẹn trong bối cảnh thế giới thứ ba, và, trong một số trường hợp, nó vẫn là mục tiêu phải đạt tới, đó là: tiền lương đủ để nuôi sống gia đình, những bảo đảm xã hội cho tuổi già và khi thất nghiệp, sự điều chỉnh các điều kiện lao động cho thích hợp.

35.   Vai trò và những giới hạn của lợi nhuận

Tất cả những điều đó, làm nên một lãnh vực hoạt động rộng lớn, và phong phú đối với sự dấn thân và đấu tranh, nhân danh sự công bằng, của các nghiệp đoàn và các tổ chức khác của người lao động; các nghiệp đoàn và tổ chức đó bảo vệ quyền của người lao động và bảo vệ phẩm giá của họ, đồng thời cũng chu toàn một chức năng thiết yếu thuộc lãnh vực văn hóa, để làm cho người lao động được tham gia với đầy đủ quyền hạn và một cách đáng tôn trọng vào đời sống của quốc gia, cũng như giúp đỡ họ tiến bước trên con đường phát triển của họ.

Theo chiều hướng này, người ta có lý để nói về một cuộc đấu tranh chống lại một trật tự kinh tế hiểu như là phương pháp để đảm bảo ưu thế tuyệt đối của tư bản, của việc chiếm hữu các dụng cụ sản xuất và chiếm hữu đất đai, hơn là tự do và phẩm giá lao động của con người[73]. Khi chiến đấu chống lại hệ thống này, người ta không thể đề ra đối nghịch nó, như một kiểu mẫu thay thế, hệ thống chủ nghĩa xã hội, vì hệ thống này thực ra cũng là một thứ chủ nghĩa tư bản của nhà nước, nhưng người ta có thể đề ra đối nghịch nó xã hội của tự do lao động, kinh doanh và được tham dự. Xã hội này không đối nghịch với thị trường, nhưng đòi hỏi thị trường phải được kiểm soát một cách hợp lý do những sức mạnh xã hội, do nhà nước, sao cho bảo đảm được sự thỏa mãn các nhu cầu căn bản của toàn xã hội.

Giáo hội nhìn nhận vai trò thích hợp của lợi nhuận như là một chỉ dẫn cho thấy tiến hành tốt đẹp của một doanh nghiệp. Khi một doanh nghiệp làm ra lợi nhuận, thì điều đó có nghĩa là các yếu tố sản xuất đã được sử dụng thích đáng và các nhu cầu chính đáng của con người đã được thỏa mãn thích hợp. Tuy nhiên, lợi nhuận không phải là chỉ dẫn duy nhất về tình trạng của một doanh nghiệp. Có thể rằng người ta đạt được những tài khoản có giá, nhưng đồng thời những con người đã làm nên những tài sản quý báu nhất của doanh nghiệp lại bị hạ thấp và bị xúc phạm về phẩm giá của họ. Điều đó chẳng những là điều không thể chấp nhận được, xét theo khía cạnh luân lý, nhưng tất nhiên còn kéo theo những hậu quả tiêu cực đối với chính hiệu năng kinh tế của doanh nghiệp. Quả thực, mục tiêu của doanh nghiệp không phải duy chỉ là tạo ra lợi nhuận, nhưng còn là chính sự hiện hữu của doanh nghiệp như một cộng đồng các con người nữa; cộng đồng này bằng những cách thức khác nhau, tìm đạt tới sự thỏa mãn các nhu cầu nền tảng của mình và làm thành một nhóm riêng biệt để phục vụ toàn thể xã hội. Lợi nhuận là một yếu tố điều hòa của một cơ sở, nhưng đó không phải là một yếu tố duy nhất; còn phải quan tâm thêm vào đó những yếu tố khác có tính nhân bản và đạo đức, những yếu tố này về lâu về dài, ít ra cũng là những yếu tố thiết yếu cho doanh nghiệp.

 

Chúng ta thấy rằng người ta không thể chấp nhận sự sụp đổ của “chủ thuyết xã hội hiện thực”, nhưng người ta vẫn gọi nhường chỗ cho duy một mẫu chủ nghĩa tư bản trong việc tổ chức kinh tế. Phải phá đổ những rào cản và những thế lực độc quyền làm cho nhiều dân tộc bị loại ra bên lề sự phát triển, phải đảm bảo cho mọi cá nhân và mọi quốc gia có những điều kiện sơ đẳng để tham gia vào sự phát triển. Mục tiêu này đòi hỏi tất cả cộng đồng thế giới phải có nhiều nỗ lực phối hợp và có trách nhiệm. Các quốc gia hùng mạnh nhất nên biết dành cho các quốc gia nghèo nhất có những khả năng hội nhập vào đời sống quốc tế và các quốc gia thiếu thốn nhất nên biết nắm bắt lấy những khả năng này, chấp nhận những nỗ lực và những hy sinh cần thiết, bảo đảm sự vững chắc của tổ chức chính trị và nền kinh tế của mình, bảo đảm sự vững vàng trong viễn tượng tương lai của mình, bảo đảm sự gia tăng trình độ chuyên nghiệp của các người lao động, bảo đảm các người kiều khiển doanh nghiệp có được sự đào tạo hữu hiệu và có ý thức về trách vụ của mình.[74]

Hiện nay, vấn đề nợ nần của các quốc gia nghèo nhất, một vấn đề mà phần lớn vẫn chưa được giải quyết đang đè nặng trên những nỗ lực xây dựng đã thể hiện trong lãnh vực phát triển. Nguyên tắc nợ thì phải trả, dĩ nhiên là nguyên tắc chính đáng, nhưng nếu đòi hỏi, yêu cầu phải trả khi mà điều đó đưa tới việc thực sự áp đặt những lựa chọn chính trị, mà thực chất là thúc đẩy cả một dân tộc đến chỗ nghèo đói và thất vọng thì đó là không chính đáng. Người ta không thể đòi hỏi trả những món nợ đã ký kết với cái giá những hy sinh không thể chịu đựng nổi. Trong trường hợp này, cần phải tìm những phương cách giảm bớt, gia hạn hoặc xóa bỏ tiền nợ, hợp với quyền căn bản được sống và được phát triển của các dân tộc, điều này đang được thực hiện một phần.

36.   Những thái quá của xã hội tiêu thụ

Giờ đây, cần phải lưu ý tới các vấn đề đặc biệt và những đe dọa xảy ra trong nội bộ các nền kinh tế tiến bộ nhất và gắn liền với các đặc tính của các nền kinh tế ấy. Trong những giai đoạn trước khi phát triển, con người luôn sống trong sự nghèo khổ. Những nhu cầu của họ rất ít, một cách nào đó, giới hạn trong những cấu trúc khách quan của sự cấu tạo thể lý của họ mà thôi, và hoạt động kinh tế được quan niệm là để thỏa mãn những nhu cầu đó. Ngày nay, rõ ràng vấn đề không phải chỉ là cung cấp cho con người một lượng đủ về của cải, nhưng là đáp ứng cho nhu cầu về phẩm: phẩm chất của hàng hóa được sản xuất và tiêu thụ, phẩm chất của dịch vụ mà người ta cần đến, phẩm chất của môi trường và của đời sống nói chung.

 

Yêu cầu có một cuộc sống thỏa mãn hơn về phẩm chất và giàu có hơn, tự nó, là điều chính đáng. Nhưng người ta phải lưu ý tới các trách nhiệm mới và tới các nguy hiểm gắn liền với giai đoạn lịch sử này. Trong cách thức nảy sinh các nhu cầu mới và cách thức xác định các nhu cầu đó, luôn luôn có một quan niệm hơn kém chính đáng về con người, và về sự thiện đích thực của con người. Trong những chọn lựa sản xuất và tiêu thụ, xuất hiện một nền văn hóa nào đó, nó nói lên một quan niệm về toàn bộ đời sống. Chính khi đó xuất hiện hiện tượng tiêu thụ. Khi người ta xác định các nhu cầu mới, các phương pháp mới để làm thỏa mãn các nhu cầu đó, người ta cần phải cảm nhận một hình ảnh toàn diện về con người, hình ảnh tôn trọng tất cả những chiều kích của con người, và coi chiều kích thể lý, bản năng là những điều tùy thuộc vào những chiều kích nội tại và thiêng liêng. Ngược lại, nếu người ta qui chiếu trực tiếp vào các bản năng, và nếu người ta bỏ qua, cách này hay cách khác, thực tại của một con người có ý thức và tự do, thì điều đó có thể đưa tới những thói quen tiêu thụ và những kiểu sống khách quan không chính đáng và thường là tai hại cho sức khỏe thể lý và tinh thần. Một hệ thống kinh tế không bao gồm trong khuôn khổ riêng của nó những tiêu chuẩn cho phép phân biệt đúng đắn các hình thức mới và cao nhất để thỏa mãn các nhu cầu của con người cũng như các nhu cầu mới được khơi dậy ngăn cản con người đạt tới sự trưởng thành nhân cách. Như vậy cần thiết và khẩn cấp phải có một công việc rộng lớn về giáo dục và văn hóa, gồm việc huấn luyện các người tiêu thụ biết sử dụng quyền chọn lựa một cách có trách nhiệm, huấn luyện một cảm quan bén nhạy về tinh thần trách nhiệm cho những người sản xuất và nhất là cho những chuyên viên về truyền thông xã hội, chưa kể tới sự can thiệp cần thiết của chính quyền.

Bài này đã được xem 791 lần!

Pages ( 7 of 12 ): <1 ... 56 7 89 ... 12>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]