THÔNG ĐIỆP CENTESIMUS ANNUS (BÁCH CHU NIÊN)

Ma túy là một trường hợp rõ ràng về một sự tiêu thụ giả tạo, có hại cho sức khỏe và phẩm giá con người và chắc chắn là khó kiểm soát được. Sự lan rộng của ma túy là một dấu hiệu thiếu hiệu năng của hệ thống xã hội, nó giả thiết một “não trạng” duy vật, và theo một nghĩa nào đó, hủy hoại các nhu cầu của con người. Như vậy, các khả năng đổi mới nền kinh tế tự do, cuối cùng, lại được thực hiện một cách độc đoán và không thích hợp. Ma túy, và cả các sách báo khiêu dâm và các hình thức tiêu thụ khác, nhằm khai thác sự dòn mỏng của những người yếu đuối, là một cách tìm lấp đầy khoảng trống tâm linh đang diễn ra.

Ước muốn sống tốt hơn không phải là xấu, nhưng điều xấu là một mẫu sống tốt hơn lại hướng tới “cái có” chứ không hướng tới “cái là”, và khi người ta muốn có nhiều hơn không phải để là nhiều hơn, nhưng là để hoàn thành cuộc sống bằng một sự hưởng thụ, coi đó như chính mục đích của cuộc đời[75]. Như vậy, cần phải nỗ lực để tạo ra một mẫu sống trong đó các yếu tố quyết định các lựa chọn tiêu thụ, tiết kiệm và đầu tư, phải là sự tìm kiếm điều chân thiện mỹ, cũng như sự thông hiệp với các người khác để tạo một sự phát triển chung. Về vấn đề này, tôi không chỉ bằng lòng với một lời kêu gọi thi hành nghĩa vụ của đức ái, nghĩa là nghĩa vụ trao tặng những cái “dư thừa”, và đôi khi cả những cái “cần thiết” của mình để trợ giúp cuộc sống của người nghèo. Tôi muốn nói tới sự kiện là ngay cả sự lựa chọn đầu tư ở nơi này hơn là nơi kia, trong một ngành sản xuất này hơn là ngành sản xuất khác, luôn là một lựa chọn có tính cách luân lý và văn hóa. Một khi có đủ một số điều kiện cần thiết trong lãnh vực kinh tế và để tạo nên một thế chính trị chắc chắn, thì quyết định đầu tư, nghĩa là trao tặng cho một dân tộc có một cơ hội để thể hiện công việc của mình cho có giá trị, cũng chịu ảnh hưởng do một thái độ thiện cảm và niềm tin tưởng nơi Đấng Quan Phòng, những thái độ này cho thấy phẩm chất nhân bản của người quyết định.

37.   Sự cần thiết của sinh thái học

Bên cạnh vấn đề tiêu thụ, vấn đề sinh thái gắn liền với vấn đề tiêu thụ, cũng tạo nên biết bao lo ngại. Con người do bị chi phối bởi các ước muốn “có” và hưởng, nhiều hơn bởi ước muốn “là” và tăng triển, đã tiêu thụ một cách quá đáng và bừa bãi các tài nguyên của trái đất và của chính cuộc sống mình. Nguồn gốc của sự hủy hoại cách ngu ngốc môi trường thiên nhiên là một sự sai lầm về nhân học, tiếc thay, sai lầm này lan rộng trong thời đại chúng ta. Con người, khi khám phá ra khả năng biến đổi, và theo một nghĩa nào đó, khả năng sáng tạo thế giới nhờ lao động của mình, đã quên rằng điều đó luôn chỉ được hoàn thành khởi từ một hồng ân nguyên thủy do Thiên Chúa ban ra. Con người tưởng mình có quyền sử dụng trái đất một cách độc đoán, bắt nó hoàn toàn lệ thuộc ý muốn của mình, như thể trái đất không hề có một hình thức và một mục đích từ trước do Thiên Chúa định đoạt và con người có thể phát triển mà không được phản bội. Thay vì chu toàn vai trò là người cộng tác với Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, con người tự thay thế Thiên Chúa, và như vậy đưa tới sự phản loạn của thiên nhiên, một thiên nhiên bị hà hiếp hơn là được cai quản do con người [76].

Ở đây, chúng ta nhận thấy trước hết là sự nghèo nàn và bần tiện trong cái nhìn của con người, bị thúc đẩy do ước muốn chiếm hữu sự vật hơn là nhìn sự vật trong tương quan với chân lý. Một cái nhìn không có được một thái độ vô tư, vô vị lợi do cảm quan thẩm mỹ được gợi ra bởi sự thán phục trước sự vật, và trước vẻ huy hoàng, giúp con người nhận thấy trong các sự vật hữu hình sứ điệp của Thiên Chúa vô hình đã sáng tạo ra chúng. Trong lãnh vực này, nhân loại ngày nay phải ý thức về các nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với các thế hệ tương lai.

38.   Sự tàn phá môi trường

Ngoài sự tàn phá một cách vô lý môi trường thiên nhiên còn phải nhắc tới ở đây sự tàn phá còn nặng nề hơn nữa đối với môi trường nhân loại, thế mà người ta còn chưa có một sự chú ý đúng mức về môi trường con người này. Trong khi người ta bận tâm chính đáng, mặc dù còn chưa đạt tới mức độ cần thiết, nhằm bảo vệ chỗ cư trú thiên nhiên của các chủng loại thú vật khác nhau đang bị đe dọa tuyệt chủng, bởi vì người ta nhận thức rằng mỗi loại có phần đóng góp riêng của mình cho sự quân bình chung của trái đất, thì người ta lại quan tâm quá ít trong việc bảo vệ các điều kiện luân lý của một thứ “sinh thái con người” đích thực. Không phải chỉ có trái đất được Thiên Chúa ban cho con người và con người phải sử dụng nó trong sự tôn trọng ý hướng nguyên thủy, tốt đẹp của Đấng Tạo Hóa, nhưng cả con người cũng được Thiên Chúa ban cho chính mình và như vậy con người phải tôn trọng cấu trúc tự nhiên và luân lý mà mình đã lãnh nhận. Trong bối cảnh này, cần phải đề cập tới các vấn đề trầm trọng do việc đô thị hóa hiện đại gây ra, tới sự cần thiết một kế hoạch đô thị hóa quan tâm tới đời sống cá nhân, và lưu ý thích đáng đến “sinh thái xã hội” của lao động.

Con người đón nhận từ Thiên Chúa phẩm giá thiết yếu của mình, và cùng với phẩm giá đó, cũng đón nhận khả năng vượt trên tất cả tổ chức xã hội để hướng tới chân lý và sự thiện. Tuy nhiên, con người cũng bị chi phối do cơ cấu xã hội mình đang sống, do nền giáo dục mình được hấp thụ và do môi trường của mình. Các yếu tố này có thể làm dễ dàng hoặc ngăn cản đời sống dõi theo chân lý. Các quyết định, nhờ đó môi trường nhân loại được cấu tạo có thể tạo nên những cấu trúc tội lỗi riêng biệt làm cản trở sự phát triển trọn vẹn của những người bị các cấu trúc đó chèn ép bằng nhiều cách. Việc phá hủy các cấu trúc đó và thay thế chúng bằng những hình thức đích thực hơn của sự chung sống, đó là một trách vụ đòi hỏi có sự can đảm và kiên nhẫn[77].

39.   Gia đình: đền thánh của sự sống

Cấu trúc căn bản đầu tiên của một nền “sinh thái con người” đó là gia đình; trong cuộc sống gia đình, con người đón nhận những ý niệm đầu tiên có tính cách quyết định, liên quan tới chân lý và sự thiện, trong gia đình con người học biết thế nào là yêu mến và được yêu, và do đó cũng học biết ý nghĩa cụ thể của việc là một con người. Ở đây chúng ta nghĩ đến gia đình dựa trên hôn nhân, trong đó việc dâng hiến chính mình cho nhau giữa người nam và người nữ tạo nên một môi trường sống mà đứa trẻ có thể được sinh ra và triển nở các khả năng của nó, học biết về phẩm giá của nó và chuẩn bị đối đầu với vận mệnh duy nhất bất khả thay thế của nó. Ngược lại, thường xảy ra là con người thiếu can đảm để thực hiện những điều kiện đích thực cho việc sinh ra một con người và họ đi đến chỗ tự coi mình và tự coi cuộc sống của mình như là toàn bộ các cảm giác nghiệm thấy chứ không như một công trình cần phải hoàn thành. Từ đó nảy sinh sự thiếu tự do, làm cho con người từ bỏ nghĩa vụ phải tự gắn bó với người khác trong một tình trạng vững bền và từ bỏ nghĩa vụ sinh con cái, hoặc coi các đứa con như một trong nhiều “sự vật” mà con người có thể có hoặc không tùy theo sở thích, và coi con cái như một thứ cạnh tranh với các khả năng khác.

Phải trở lại với quan niệm gia đình như một đền thánh của sự sống. Thực sự, gia đình được thánh hiến, đó là nơi mà sự sống, một hồng ân của Thiên Chúa, có thể được đón nhận một cách thích hợp và được bảo vệ chống lại bao nhiêu sự tấn công xảy ra, đó là nôi mà sự sống có thể triển nở theo những đòi hỏi của một sự tăng triển con người đích thực. Ngược lại với điều người ta gọi là văn hóa của sự chết, gia đình là nơi văn hóa của sự sống.

Trong lãnh vực này, hình như tài năng của con người được sử dụng nhiều để giới hạn, loại trừ hoặc tiêu hủy các nguồn mạch của sự sống, ngay cả bằng cách phá thai, điều này khốn thay lại đang lan tràn trong thế giới, hơn là để bảo vệ và mở rộng các khả năng của chính sự sống. Trong thông điệp SRS, chúng tôi đã tố cáo các phong trào tổ chức chống lại sự sinh sản, các phong trào này dựa trên một quan niệm sai lạc về vấn đề dân số, trong bầu khí “hoàn toàn mất tôn trọng tự do quyết định của các người liên hệ”, thường bắt con người chịu những áp lực không thể chịu nổi (…) để khuất phục họ dưới hình thức áp bức mới này[78]. Đó là những chính sách với những kỹ thuật mới, đã mở rộng lãnh vực hoạt động của mình đến mức đầu độc sự sống của hàng triệu con người không tự vệ, giống như trong một “cuộc chiến tranh hóa học”.

Những phê phán này không hẳn nhằm tới một hệ thống kinh tế cho bằng hệ thống đạo đức và văn hóa. Thực sự kinh tế chỉ là một khía cạnh, một chiều kích trong tổng thể phức tạp của hoạt động con người. Nếu như kinh tế trở thành một điều tuyệt đối, nếu sự sản xuất và tiêu thụ các hàng hóa, cuối cùng lại chiếm vị trí trung tâm của đời sống xã hội và trở thành giá trị duy nhất của xã hội, không tùy thuộc bất cứ giá trị nào, thì phải tìm nguyên nhân của nó không chỉ và không nhiều lắm trong chính hệ thống kinh tế, nhưng trong sự kiện là hệ thống văn hóa xã hội, khi không nhận biết chiều kích đạo đức và tôn giáo, đã trở nên yếu đuối và tự giản lược vào sự sản xuất các của cải cũng như các dịch vụ [79].

Chúng ta có thể tóm tắt tất cả những điều đó bằng cách khẳng định một lần nữa rằng tự do kinh tế chỉ là một yếu tố của tự do con người. Khi nó trở thành độc lập, khi con người bị coi như một nhà sản xuất hoặc một người tiêu thụ của cải hơn là một chủ thể đã sản xuất và tiêu thụ để sống, khi đó tự do kinh tế mất đi mối tương quan chính đáng với ngôi vị con người và cuối cùng là tha hóa và đàn áp con người[80].

 

40.   40. Nhà nước phải bảo vệ những tài sản tập thể.

Nhà nước có bổn phận bảo vệ các tài sản tập thể, đó là môi trường thiên nhiên và môi trường con người, và sự gìn giữ đó không thể chỉ thực hiện được do vận hành của thị trường. Cũng như vào thời chế độ tư bản trước đây, nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ các quyền căn bản của lao động, thì cũng thế, trong chế độ tư bản mới, nhà nước cũng như xã hội phải bảo vệ tài sản tập thể, những tài sản này và những cái khác nữa, làm nên một khuôn khổ trong đó mỗi con người có thể đạt tới mục đích cá nhân của mình một cách hợp pháp.

Ở đây chúng ta thấy một giới hạn khác của thị trường: có những nhu cầu tập thể và có tính cách phẩm chất không thể được thỏa mãn do cơ chế của thị trường; có những nhu cầu quan trọng của con người vượt ra khỏi đường lối của thị trường; có những của cải mà, do bản chất của nó, không thể bán hoặc mua được. Chắc chắn các cơ chế thị trường đem lại nhiều lợi điểm vững bền; trong đó phải kể đến việc chúng giúp sử dụng tốt hơn các nguồn lợi, chúng cổ võ những sự trao đổi sản phẩm và nhất là chúng đặt trọng tâm nơi ý muốn và sự ưa thích của con người trong hợp đồng, đáp ứng được sự ưa thích của một người khác. Tuy nhiên chúng bao gồm nguy cơ của một thứ “bái vật” trong thị trường, tức não trạng không biết rằng có những của cải, tự bản chất không phải là và không thể đơn giản là hàng hóa.

41.   Những nguồn gốc của sự vong thân

Chủ thuyết Mac-xit đã phê phán các xã hội tư bản tiểu tư sản, trách cứ các xã hội đó làm tha hóa con người và biến cuộc sống đó thành một thứ hàng hóa. Sự trách cứ này rõ ràng dựa trên một quan niệm sai lầm và không thích đáng về sự vong thân, quan niệm này coi sự vong thân chỉ tùy thuộc vào toàn bộ những tương quan sản xuất và chiếm hữu, nghĩa là trách cứ đó gắn cho sự vong thân một nền tảng duy vật, và hơn nữa, chối bỏ tính cách hợp pháp cũng như tính cách tích cực của những quan hệ thị trường ngay trong chính lãnh vực riêng của thị trường. Như vậy, người ta đi đến chỗ xác quyết rằng, vong thân chỉ có thể bị loại trừ trong một xã hội theo kiểu tập thể chủ nghĩa. Thế mà, kinh nghiệm lịch sử của các quốc gia xã hội chủ nghĩa, tiếc thay, lại đã minh chứng rằng chủ nghĩa tập thể không những không loại bỏ mà còn làm gia tăng sự vong thân, bởi vì chủ nghĩa đó tạo ra sự khan hiếm các của cải cần thiết cũng như sự vô hiệu năng về kinh tế.

Về thế giới Tây Phương, kinh nghiệm lịch sử đã minh chứng rằng, mặc dù phân tích theo Mac-xit về sự vong thân và các nền tảng của sự phân tích đó là sai lạc, sự vong thân đó đánh mất ý nghĩa đích thực của cuộc sống cũng là một thực tại trong các xã hội Tây Phương. Chúng ta nhận thấy điều đó trong phạm vi tiêu thụ, khi mà sự tiêu thụ đưa đẩy con người vào trong một hệ thống nhằm thỏa mãn các nhu cầu hời hợt và giả tạo, thay vì giúp con người có một kinh nghiệm đích thực và cụ thể về nhân cách của mình. Sự vong thân cũng xuất hiện trong lao động, khi mà lao động được tổ chức theo cách thức chỉ định giá theo sự sản xuất và các hoa lợi của lao động chứ không lưu tâm nhận biết xem qua công việc, người lao động có triển nở nhân tính của mình nhiều hay ít, tiếp theo mức độ họ tham dự vào một cộng đoàn liên đới đích thực được gia tăng, hoặc là lại trầm trọng thêm sự cô lập của họ giữa một tổng thể các tương quan mang tính cách một sự cạnh tranh quá đáng và loại trừ lẫn nhau trong đó, con người chỉ được coi như một phương tiện, chứ không như mục đích.

Cần phải tiến tới một quan niệm vong thân theo cái nhìn kitô giáo về sự vật để có thể làm sáng tỏ những đảo lộn giữa phương tiện và mục đích: khi không nhận biết giá trị sự cao cả của con người trong chính mình và trong người khác, con người đánh mất khả năng hưởng thụ nhân tính của mình một cách thích hợp và không thể gia nhập vào các tương quan liên đới, hiệp thông với những người khác mà vì đó Thiên Chúa đã sáng tạo ra con người. Thực thế, chính nhờ sự tự do dâng hiến chính mình mà con người trở thành đích thực là mình[81], và sự dâng hiến này có thể thực hiện được bởi vì con người thiết yếu “có khả năng vươn lên”. Con người không thể lao đầu vào một dự định hoàn toàn của con người đối với thực tại, vào một lý tưởng trừu tượng hoặc một ảo tưởng sai lầm. Xét như con người, họ có thể trao tặng mình cho một người khác, hoặc cho những người khác, và cuối cùng cho Thiên Chúa, Đấng là tác giả của con người và là Đấng duy nhất có thể đón nhận trọn vẹn sự dâng hiến này[82]. Con người bị vong thân khi họ từ chối vươn tới siêu việt và từ chối dâng hiến chính mình, kinh nghiệm xây dựng một cộng đồng đích thực hướng về cùng đích là chính Thiên Chúa. Một xã hội là vong thân khi mà, trong các hình thức tổ chức xã hội, các hình thức sản xuất và tiêu thụ, xã hội đó lại làm cho sự thực hiện việc dâng hiến này và việc xây dựng liên đới giữa con người với nhau trở thành khó khăn hơn.

Trong xã hội Tây Phương, sự bóc lột đã được vượt qua, ít là theo những hình thức đã được Cac-mac phân tích và mô tả. Trong khi đó, sự vong thân chưa được vượt qua trong nhiều hình thức bóc lột khi mà con người trục lợi trên người khác và khi vì để thỏa mãn một cách luôn tinh vi hơn các nhu cầu riêng biệt và thứ yếu, người ta trở thành điếc trước nhu cầu thiết yếu và đích thực của họ, những nhu cầu này cũng phải chi phối các cách thức thỏa mãn các nhu cầu khác[83]. Con người không thể tự do nếu họ chỉ, hoặc trước hết bận tâm về cái “có” và về sự thụ hưởng đến nỗi không có khả năng làm chủ các bản năng, các đam mê, cũng không thể hợp nhất và thống trị các bản năng và đam mê bằng sự tuân phục chân lý. Tuân phục chân lý về Thiên Chúa và về con người, điều đó đối với họ, là điều kiện trước tiên của tự do và cho phép con người sắp xếp các nhu cầu, các khao khát và các cách thức thỏa mãn các điều đó theo một trật tự chính đáng, sao cho sự chiếm hữu sự vật lại là một phương tiện phát triển đối với họ. Sự phát triển này có thể bị ngăn cản do sự lèo lái của các phương tiện truyền thông, các phương tiện này nhờ một kiểu nhấn mạnh có phối trí khéo léo đã áp đặt những đường lối và những luồng dư luận, làm mất khả năng phê phán cách kỹ càng các tiền đề chúng dựa vào.

42.   Hai mặt của chủ nghĩa tư bản

Bây giờ trở lại vấn đề sơ khởi, phải chăng chúng ta có thể nói rằng, sau khi chủ nghĩa cộng sản thất bại, chủ nghĩa tư bản là hệ thống xã hội thắng thế và các quốc gia muốn tái xây dựng nền kinh tế và xã hội của mình phải hướng về đó? Phải chăng kiểu mẫu tư bản là điều phải đề nghị cho các quốc gia thuộc thế giới thứ ba, là những quốc gia đang tìm một nẻo đường thăng tiến đích thực nền kinh tế và xã hội dân sự của mình?

Bài này đã được xem 795 lần!

Pages ( 8 of 12 ): <1 ... 67 8 910 ... 12>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]