THÔNG ĐIỆP CENTESIMUS ANNUS (BÁCH CHU NIÊN)

Câu trả lời hiển nhiên là phức tạp. Nếu người ta hiểu từ ngữ “chủ nghĩa tư bản” là một hệ thống kinh tế nhìn nhận vai trò căn bản và đích thực của doanh nghiệp, của thị trường, của quyền tư hữu và trách nhiệm mà quyền đó bao hàm trong các phương tiện sản xuất, của sự sáng tạo tự do của con người trong ngành kinh tế, thì câu trả lời rõ ràng là tích cực, mặc dù có thể nói một cách thích hợp rằng đó là một thứ “kinh tế doanh nghiệp” hoặc “kinh tế thị trường”, hoặc đơn giản là “kinh tế tự do”. Nhưng nếu hiểu “chủ nghĩa tư bản” là một hệ thống, trong đó sự tự do trong lãnh vực kinh tế không bị chi phối do một khuôn khổ luật pháp vững chắc, luật pháp này nhằm để phục vụ tự do toàn vẹn của con người và coi tự do là một chiều kích đặc biệt của con người mà trọng tâm là trật tự đạo đức và tôn giáo, thì khi đó câu trả lời rõ ràng là tiêu cực.

Giải pháp Mac-xit đã thất bại, nhưng các hiện tượng như con người bị loại ra bên lề, hiện tượng bóc lột vẫn còn trong thế giới, đặc biệt trong thế giới thứ ba, cũng như các hiện tượng vong thân của con người, đặc biệt trong các quốc gia tân tiến nhất, tiếng nói của Giáo hội đã mạnh mẽ chống lại hiện tượng này. Một số đông dân chúng còn sống trong hoàn cảnh hết sức cùng khổ về vật chất và luân lý. Chắc chắn sự thất bại của hệ thống cộng sản đã loại bỏ được, trong nhiều quốc gia, một trở ngại trong việc nghiên cứu một cách thích đáng và hiện thực các vấn đề này, nhưng điều đó không đủ để giải quyết chung. Còn có một nguy cơ là sự lan tràn một ý thức hệ triệt để theo kiểu tư bản chủ nghĩa, từ chối cả việc lưu ý xem xét các vấn đề trên, chấp nhận tiên thiên rằng mọi cố gắng đối phó chỉ đưa tới thất bại, và chủ nghĩa đó theo nguyên tắc, chờ đợi một giải pháp từ sự phát triển tự do các sức mạnh của thị trường.

43.   Định hướng của Giáo hội về xã hội

Giáo hội không đề ra một khuôn mẫu nào cả. Các khuôn mẫu đích thực và thực sự có hiệu quả chỉ có thể quan niệm được trong khung cảnh của các tình huống lịch sử khác nhau, do nỗ lực của mỗi người có trách nhiệm, những người này phải đối đầu với các vấn đề cụ thể dưới tất cả mọi khía cạnh xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa bao hàm lẫn nhau[84]. Đứng trước các trách nhiệm này, Giáo hội đưa ra học thuyết xã hội của mình, như một định hướng tri thức không thể bỏ qua; học thuyết này như đã trình bày, nhìn nhận tính cách tích cực của thị trường của doanh nghiệp, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh tới sự cần thiết phải hướng tới công ích. Học thuyết này cũng nhìn nhận sự hợp pháp của các nỗ lực của người lao động để có được một sự tôn trọng đầy đủ đối với phẩm giá của mình và được tham dự nhiều hơn vào sinh hoạt doanh nghiệp, sao cho trong khi làm việc cùng với những người khác và dưới sự hướng dẫn của những người khác nữa, họ có thể, theo một nghĩa nào đó, làm việc “vì lợi ích của mình” [85], bằng cách sử dụng trí thông minh và tự do của mình.

Sự phát triển toàn vẹn một con người trong lao động, không chống lại, nhưng đúng hơn cổ võ sức sản xuất tốt hơn và hiệu năng nhiều hơn của chính lao động ngay cả khi điều đó có thể làm suy yếu các trung tâm quyền lực đã được thiết lập. Doanh nghiệp không thể chỉ được coi như một “xã hội nguồn vốn”, doanh nghiệp cũng đồng thời là một “xã hội các con người” trong đó, với những cách thức khác nhau và với những trách nhiệm chuyên biệt, có sự tham gia của những người đóng góp vốn cần thiết cho doanh nghiệp hoạt động, và những người cộng tác bằng lao động của mình. Để đạt được các mục tiêu này, vẫn còn cần thiết có một phong trào rộng lớn quy tụ các người lao động mà mục đích của nó là để giải phóng và thăng tiến toàn vẹn con người.

Dưới ánh sáng của “các sự việc mới” ngày nay, chúng ta đọc lại mối liên hệ giữa các tài sản cá nhân hoặc tư hữu và tài sản dành cho mọi người. Con người được triển nở do trí thông minh và sự tự do. Và khi triển nở như vậy, con người sử dụng các yếu tố của thế giới và chiếm hữu chúng như là đối tượng và như dụng cụ. Nền tảng của quyền có sáng kiến và có tư hữu nằm trong bản chất hoạt động con người. Nhờ lao động, con người ra sức làm việc không những cho chính mình, nhưng còn cho các người khác và với các người khác: mỗi người cộng tác vào lao động và vào thiện hảo của người khác. Con người làm việc để cung cấp cho các nhu cầu của gia đình mình, của cộng đoàn mình, của quốc gia mình, và của toàn thể nhân loại[86]. Ngoài ra họ cộng tác vào lao động của những người khác, những người hoạt động trong cùng doanh nghiệp, cũng như cộng tác vào công việc của những người cung cấp và vào sự tiêu thụ của khách hàng, trong một dây chuyền liên đới mỗi ngày mỗi lan rộng. Quyền sở hữu các phương tiện sản xuất trong lãnh vực kỹ nghệ cũng như trong lãnh vực nông nghiệp, là điều chính đáng và hợp lý, nếu như nó giúp lao động sinh lợi ích; ngược lại, quyền đó là không chính đáng khi nó không phát huy được giá trị, hoặc được dùng để ngăn cản lao động của người khác hầu có được một lợi lộc, không phát sinh do sự phát triển đồng thời của lao động và của nguồn phong phú xã hội, mà là do từ sự đặt giới hạn, do bóc lột bất chính, do sự đầu cơ và cắt đứt tình liên đới thế giới lao động[87]. Cách thức tư hữu này không chính đáng một chút nào và tạo nên một sự lạm dụng đối với Thiên Chúa và đối với con người.

 

Sự bó buộc phải đổ mồ hôi để kiếm bánh ăn, đồng thời cũng giả thiết một quyền lợi. Trong một xã hội mà quyền này có thể bị chối bỏ một cách hệ thống và trong đó các biện pháp chính trị, kinh tế không cho phép người lao động có đủ việc làm thì xã hội đó không thể có tính cách hợp pháp về đạo đức và cũng không bảo đảm được sự yên lành trong xã hội[88]. Cũng như con người tự thực hiện mình một cách trọn vẹn trong sự tự do ban tặng chính mình, thì quyền tư hữu cũng là hợp lý xét theo tính cách luân lý, khi nó tạo ra được, theo những cách thức và những nhịp điệu thích hợp, nhiều công việc làm và sự phát triển nhân bản cho mọi người.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG V

NHÀ NƯỚC VÀ VĂN HÓA

44.   Nguồn gốc của chủ nghĩa cực quyền hiện đại

Không phải Đức Lêô XIII không biết rằng cần phải có một lý thuyết đúng đắn về nhà nước để đảm bảo cho những hoạt động tinh thần và những hoạt động thể chất của con người được phát triển bình thường; cả hai đều là những hoạt động không thể không có[89]. Về vấn đề này, trong một đoạn văn của thông điệp RN, Đức Giáo Hoàng đã trình bày việc tổ chức xã hội gồm ba quyền – lập pháp, hành pháp và tư pháp – và đối với lúc bấy giờ, đây là điều mới mẻ trong giáo huấn của Giáo hội[90]. Một cơ cấu như thế phản ánh một quan niệm thực tiễn về bản chất xã hội của con người, bản chất đó đòi hỏi phải có một pháp chế thích hợp để bảo vệ sự tự do của mọi người. Theo chiều hướng này, tốt hơn mỗi một quyền cần phải được những quyền khác và những thẩm quyền khác giữ cho quân bình, giữ cho được ở trong những giới hạn chính đáng. Đó là nguyên tắc “nhà nước pháp trị”, trong đó, luật pháp chứ không phải những ý muốn độc đoán của con người có quyền tối cao.

Thời này, đi ngược lại quan niệm trên là chủ nghĩa cực quyền (totalitarisme), chủ nghĩa này, dưới hình thức Macxit Leninit, cho rằng có một số người nhờ hiểu biết sâu xa hơn về những quy luật phát triển xã hội, hoặc nhờ thuộc về một giai cấp riêng biệt và nhờ tiếp xúc nhiều hơn với những nguồn mạch sâu sắc nhất của ý thức tập thể, nên không mắc phải sai lầm, và vì thế, tự cho mình là những người nắm quyền hành tuyệt đối. Cần thêm rằng chủ nghĩa cực quyền phát xuất từ việc chối bỏ chân lý, hiểu theo nghĩa khách quan. Nếu như không có chân lý siêu việt, nhờ vâng phục chân lý đó, con người đạt tới chân tính trọn vẹn của mình, thì chẳng có một nguyên tắc nào chắc chắn có thể bảo đảm cho những tương quan đúng đắn giữa con người với nhau. Những lợi ích riêng tư của giai cấp, phe nhóm hoặc dân tộc khiến họ khó lòng tránh khỏi đối chọi với nhau. Nếu chân lý siêu việt không được nhìn nhận, thì sức mạnh của quyền bính sẽ làm bá chủ, và mọi người đều có khuynh hướng tận dụng tối đa những phương tiện mình đang có để làm cho những lợi ích hoặc những tư kiến của mình thắng thế, không thèm đếm xỉa đến những quyền lợi của người khác. Lúc đó, con người chỉ được tôn trọng tùy theo mức độ họ có thể được sử dụng vào những mục tiêu có ưu thế vị kỷ. Như thế, phải nói rằng gốc rễ của chủ nghĩa cực quyền hiện đại nằm ở thái độ chối bỏ phẩm giá siêu việt của ngôi vị con người, hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình và chính vì thế, do chính bản tính của mình, con người là chủ thể những quyền mà không một ai, dù là cá nhân, đoàn thể, giai cấp, dân tộc hay nhà nước có thể xâm phạm. Ngay cả đa số trong một đoàn thể xã hội cũng không thể xâm phạm các quyền đó bằng cách chống lại một thiểu số nhằm gạt họ ra ngoài lề, đàn áp, khai thác hoặc tìm cách triệt tiêu họ[91].

45.   Giáo hội, một trở ngại đối với nhà nước độc tài

Chủ trương và thực hành của chủ nghĩa cực quyền cũng gồm việc chối bỏ Giáo hội. Nhà nước hoặc Đảng cho rằng mình có thể thực hiện điều thiện tuyệt đối trong lịch sử và tự đặt mình lên trên mọi giá trị, nên nhà nước hoặc đảng không chịu để cho người ta bênh vực một tiêu chuẩn khách quan về thiện và ác khác với ý muốn của những người cầm quyền, và trong một số trường hợp, tiêu chuẩn ấy còn được dùng để phê phán thái độ của những người ấy. Điều đó giải thích tại sao chủ nghĩa cực quyền tìm cách triệt hạ Giáo hội, hoặc ít là bắt Giáo hội phải chịu lệ thuộc, biến Giáo hội thành một công cụ phục vụ cho ý thức hệ riêng của mình[92].

Đàng khác, nhà nước theo chế độ cực quyền còn có khuynh hướng nuốt trọn dân tộc, xã hội, gia đình, cộng đồng tôn giáo và ngay cả những cá nhân con người. Khi bênh vực quyền tự do của mình, Giáo hội cũng bênh vực con người, là những kẻ phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người phàm (x. Cv 5,29), đồng thời bênh vực gia đình, những tổ chức xã hội khác nhau và các dân tộc, là những thực tại được hưởng quyền tự trị và quyền tối cao trong những phạm vi riêng của mình.

46.   Nền dân chủ đích thực

Giáo hội đánh giá cao hệ thống dân chủ, xét như một hệ thống bảo đảm cho người công dân được quyền tham gia vào các lựa chọn chính trị, đồng thời bảo đảm cho những người ở dưới quyền cai trị vừa được quyền chọn lựa và kiểm soát những người cai trị mình, vừa được quyền thay đổi họ bằng những phương thế ôn hòa khi điều đó thuận lợi[93]. Như vậy, Giáo hội không thể tán thành thể chế chỉ có một nhóm người lãnh đạo giới hạn, nắm hết quyền nhà nước nhằm phục vụ lợi ích riêng tư hoặc những mục tiêu ý thức hệ.

Chỉ có thể có dân chủ thực sự trong một nhà nước pháp trị và dựa trên một quan niệm đúng đắn về ngôi vị con người. Một nền dân chủ thực sự đòi hỏi phải tạo điều kiện cần thiết cho việc phát triển “phẩm cách riêng” của xã hội, thông qua việc sáng tạo những cơ cấu để mỗi người có thể tham gia và đồng lãnh trách nhiệm. Ngày nay, có khuynh hướng khẳng định rằng chủ nghĩa bất khả tri và chủ nghĩa tương đối hoài nghi là tượng trưng của triết lý và của thái độ căn bản hợp với các hình thức dân chủ trong sinh hoạt chính trị cũng như khẳng định rằng những người xác tín mình biết chân lý và gắn bó chặt chẽ với chân lý là những người không đáng tín nhiệm xét về quan điểm dân chủ, bởi vì những người đó không nhận rằng chân lý được quy định bởi đa số, hoặc chân lý có thể biến chuyển tùy theo những thế quân bình chính trị khác nhau. Về vấn đề này, cần nhận định rằng nếu không có một chân lý tối hậu chỉ đạo và hướng dẫn hoạt động chính trị, thì những tư tưởng và những xác tín có thể bị khai thác dễ dàng nhằm phục vụ quyền bính. Một nền dân chủ không tôn trọng những giá trị, sẽ dễ dàng biến thành một chủ nghĩa cực quyền công khai hoặc được ngụy trang kín đáo, như lịch sử từng minh chứng. Cũng không phải Giáo hội không biết đến nguy cơ của thái độ cuồng tín hoặc chủ trương bảo thủ tôn giáo của những người nhân danh một ý thức hệ tự nhận là có tính khoa học hay tôn giáo, cho rằng có thể áp đặt cho người khác quan niệm của mình về chân lý và sự thiện. Chân lý của kitô giáo không thuộc loại này. Vì không phải là một ý thức hệ, nên đức tin kitô giáo không hề tìm cách giam hãm những thực tại xã hội và chính trị, là những thực tại hay thay đổi, vào một khuôn mẫu cứng ngắc, nhưng đức tin kitô giáo nhìn nhận rằng cuộc đời con người diễn ra trong lịch sử bằng những cách thế khác nhau và không hoàn hảo. Nhưng khi Giáo hội thường xuyên tái khẳng định phẩm giá siêu việt của con người, qui luật hành động của Giáo hội bao giờ cũng là tôn trọng tự do[94].

Thế nhưng tự do chỉ đạt tới mức độ phát triển trọn vẹn nhờ biết đón nhận chân lý. Trong một thế giới không có chân lý tự do sẽ không có nền tảng bền vững và con người phải chịu khuất phục bạo lực xuất phát từ những đam mê và những thủ đoạn rõ ràng kín đáo. Người kitô hữu sống tự do (x. Gl 8,31-32), và dấn thân phục vụ tự do, kiên trì giới thiệu chân lý mình đã khám phá đúng theo bản chất của ơn gọi truyền giáo của mình. Nhờ lưu tâm đến mọi yếu tố của chân lý mà họ đã khám phá qua kinh nghiệm trong đời sống và văn hóa của những con người và những dân tộc khi đối thoại với người khác, họ sẽ không ngần ngại khẳng định những gì họ đã biết nhờ niềm tin và nhờ dùng lý trí một cách đúng đắn[95].

47.   Nền dân chủ và sự tôn trọng nhân quyền

Sau khi chủ nghĩa cực quyền cộng sản cũng như nhiều chế độ cực quyền khác và các chế độ “an ninh quốc gia” sụp đổ, hiện nay ta đang chứng kiến thành công của lý tưởng dân chủ trong thế giới, tuy không phải là không có những dấu hiệu xung đột, song song với mối quan tâm lớn lao và mối ưu tư mãnh liệt đối với các quyền con người. Nhưng muốn đi theo chiều hướng này, các dân tộc đang trên đà cải tổ thể chế của mình cần phải dành cho thể chế dân chủ một nền tảng đích thực và chắc chắn nhờ biết nhìn nhận rõ rệt các quyền này[96]. Trong số những quyền chính yếu, phải nói đến quyền được sống; thành phần toàn vẹn của quyền được sống là quyền được lớn lên trong lòng mẹ sau khi thụ thai; tiếp đến là quyền được sống trong một gia đình hòa thuận và trong một môi trường đạo đức thuận tiện cho việc phát triển nhân cách; quyền được phát triển về trí tuệ và tự do qua việc tìm kiếm và nhận biết chân lý; quyền được tham gia vào việc khai thác những tài nguyên của trái đất và làm sản sinh ra của nuôi sống mình và nuôi sống những người thân của mình; quyền được tự do xây dựng một gia đình, đón nhận và dưỡng dục con cái bằng cách sử dụng tính dục một cách có trách nhiệm. Theo một nghĩa nào đó, nguồn mạch và tổng hợp các quyền trên, chính là quyền tự do tôn giáo, hiểu như quyền được sống trong chân lý của niềm tin của mình và phù hợp với phẩm giá siêu việt của con người[97].

Ngay tại những quốc gia đã có những hình thức chính quyền dân chủ, các quyền trên không phải lúc nào cũng được tôn trọng hoàn toàn. Ở đây ta không chỉ nghĩ đến tệ nạn phá thai, nhưng còn cả những khía cạnh khác của cuộc khủng hoảng các hệ thống dân chủ mà dường như đôi lúc đã làm biến chất khả năng đưa ra những quyết định nhằm phục vụ công ích. Những yêu cầu của xã hội không phải lúc nào cũng được cứu xét theo những tiêu chuẩn công bằng và đạo đức, nhưng đúng hơn được cứu xét theo ảnh hưởng của việc bầu cử hoặc theo thế lực tài chính của những nhóm ủng hộ những yêu cầu đó. Với thời gian, những sai lạc như thế trong đường lối chính trị sẽ gây ra ngờ vực và lãnh đạm, đồng thời kéo theo thái độ không thèm tham gia chính trị và làm giảm sút tinh thần công dân của quần chúng, một quần chúng cảm thấy bị lợi dụng và lường gạt. Hậu quả là càng ngày càng không thể xác định những lợi ích riêng tư trong khung cảnh một quan niệm hợp lý về công ích. Quả vậy, công ích không phải chỉ là tổng số những lợi ích riêng tư, nhưng nó giả thiết người ta phải đánh giá và hòa hợp những lợi ích riêng tư theo bậc thang giá trị quân bình, và nói cho cùng, theo một quan niệm đúng đắn về phẩm giá và các quyền của con người[98].

Bài này đã được xem 801 lần!

Pages ( 9 of 12 ): <1 ... 78 9 101112>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]