204. Ngày nay, người ta càng xác tín rằng, bên cạnh những tiến bộ khoa học mang tính chuyên ngành, cần phải có sự trao đổi liên ngành, bởi lẽ thực tại chỉ là một, cả khi được tiếp cận dưới nhiều khía cạnh khác nhau và bằng những phương pháp khác nhau. Có một nguy cơ chớ nên coi thường đó là xem một tiến bộ khoa học nào đó là cách tiếp cận duy nhất khả dĩ nắm bắt mọi khía cạnh của đời sống, của xã hội và của thế giới. Thay vào đó, các nhà nghiên cứu tuy là chuyên gia trong lĩnh vực của mình lại vẫn sẵn sàng thừa nhận những chiều kích khác của thực tại mà họ nghiên cứu, sẽ hiểu biết thực tại cách trọn vẹn và đầy đủ hơn nhờ vào các công trình khoa học và tri thức khác.
205. Trong thế giới toàn cầu hóa này “nhờ các phương tiện truyền thông, chúng ta cảm thấy gần nhau hơn, nhận ra ý nghĩa mới mẻ của tình hiệp nhất gia đình nhân loại vốn là động lực thúc đẩy tình liên đới và sự dấn thân nghiêm túc để mọi người có được cuộc sống xứng đáng hơn. Các phương tiện truyền thông có thể giúp chúng ta thực hiện điều này, nhất là ngày nay, khi các mạng lưới truyền thông của con người đã đạt được những tiến bộ vượt bậc. Đặc biệt, internet cho chúng ta nhiều cơ hội gặp gỡ và liên đới với nhau hơn. Đây là điều thực sự tốt lành, là quà tặng của Thiên Chúa[199]. Nhưng cần làm thế nào để luôn bảo đảm rằng các phương thức truyền thông hiện nay hướng chúng ta đến cuộc gặp gỡ quảng đại, chân thành tìm kiếm sự thật toàn vẹn, phục vụ người nghèo, gần gũi với họ và dấn thân xây dựng công ích. Đồng thời, như các Giám mục Úc đã chỉ ra, “chúng ta không thể chấp nhận một thế giới kỹ thuật số được hoạch định để khai thác các nhược điểm của chúng ta và phơi bày những điều tồi tệ nhất nơi con người”[200].
NỀN TẢNG CỦA VIỆC ĐỒNG THUẬN
206. Chủ thuyết tương đối không phải là một giải pháp. Dưới lớp vỏ khoan dung, thuyết này cuối cùng sẽ để cho những người nắm giữ quyền thế giải thích các giá trị luân lý theo lề thói của thời đại. Rốt cuộc, “nếu không có các chân lý khách quan hoặc các nguyên tắc vững chắc tách khỏi việc thỏa mãn những mong muốn cá nhân và nhu cầu tức thời […], thì chúng ta đừng nên nghĩ rằng những kế sách chính trị hoặc sức mạnh của luật pháp là đủ […] Khi văn hóa suy đồi và khi sự thật khách quan cùng những nguyên tắc có giá trị phổ quát không còn được tôn trọng nữa, thì luật pháp chỉ có thể được xem như những áp đặt độc đoán hay những chướng ngại phải tránh mà thôi”[201].
207. Có thể nào quan tâm đến chân lý, tìm kiếm chân lý có khả năng mang lại ý nghĩa cho thực tại sâu xa nhất của chúng ta hay không? Luật là gì nếu không có niềm xác tín – chắt lọc từ những suy tư và sự khôn ngoan từ bao đời – rằng mỗi con người đều mang tính thánh thiêng và bất khả xâm phạm? Để xã hội có tương lai, cần phải vun trồng ý thức tôn trọng sự thật về phẩm giá con người và quy thuận sự thật này. Vì thế, người ta sẽ không giết người, không phải chỉ vì để khỏi bị xã hội lên án hay bị luật pháp trừng trị, nhưng bởi có niềm xác tín. Đó là chân lý tất yếu được lý trí nhận biết và lương tri chấp nhận. Một xã hội sở dĩ được xem là đáng quý đáng trọng, cách riêng là vì xã hội ấy có ý thức tìm kiếm chân lý và trung thành với những chân lý nền tảng nhất.
208. Chúng ta phải biết vạch trần những kiểu thao túng, bóp méo và che giấu sự thật, trong lĩnh vực công cũng như tư. Điều chúng ta gọi là “sự thật” không chỉ là việc tường thuật các sự kiện và biến cố, như chúng ta thấy trên báo chí hằng ngày. Trước hết đó là tìm kiếm những nền tảng vững chắc nhất cho những chọn lựa và luật pháp của chúng ta. Điều này giả thiết phải thừa nhận rằng trí năng con người có thể vượt khỏi các lề thói của thời đại để nắm bắt một số chân lý không thay đổi, vốn đã đúng và sẽ luôn mãi đúng như vậy. Khi tìm hiểu bản tính con người, lý trí khám phá những giá trị phổ quát bắt nguồn từ cùng một bản tính ấy.
209. Nếu không, thì những quyền cơ bản của con người, ngày nay vốn được coi là không thể tước bỏ, sẽ bị những kẻ quyền thế phủ nhận với sự “đồng thuận” của một quần chúng mơ ngủ và sợ sệt lại chẳng là chuyện không thể xảy ra hay sao? Thế nên vẫn sẽ là chưa đủ, nếu chỉ có sự đồng thuận giữa nhiều dân tộc vì sự đồng thuận đó có thể bị thao túng. Có nhiều bằng chứng cho thấy chúng ta có thể thực hiện mọi điều tốt đẹp, nhưng đồng thời phải thừa nhận khả năng hủy hoại trong con người chúng ta. Chủ nghĩa cá nhân dửng dưng và nhẫn tâm mà chúng ta rơi vào, há chẳng phải là một hậu quả khác của thói biếng nhác trong việc tìm kiếm những giá trị cao quý vượt trên những nhu cầu tức thời hay sao? Thêm vào với chủ nghĩa tương đối là nguy cơ những kẻ cầm quyền hay những kẻ xảo trá nhất áp đặt những điều mà họ gọi là chân lý. Cần nhớ rằng, “liên quan đến các chuẩn mực luân lý cấm chỉ điều xấu tự bản chất, thì không ai được đặc quyền hay miễn chước. Cho dù là chủ nhân thế giới hay kẻ khốn cùng nhất trên mặt đất, vẫn không hề có sự khác biệt: trước những đòi buộc luân lý, tất cả chúng ta đều tuyệt đối bình đẳng”[202].
210. Điều đang diễn ra và cuốn chúng ta vào một lối suy nghĩ xấu xa và rỗng tuếch, đó là việc đồng hóa đạo đức và chính trị với những sự kiện vật chất. Chẳng có điều gì là tốt xấu tự bản chất, mà chỉ có những tính toán thiệt hơn, lợi hại. Việc chuyển đổi lý lẽ tốt xấu của luân lý gây ra hậu quả là luật pháp không thể phản ánh ý niệm nền tảng về công lý mà trở thành hình ảnh phản chiếu của các tư tưởng đang thịnh hành. Thế là xã hội cứ suy thoái dần: tiến bộ “bằng cách san bằng cho thấp xuống” bởi một sự đồng thuận hời hợt mang tính đổi chác. Và cuối cùng lý lẽ của kẻ mạnh sẽ thắng.
Sự đồng thuận và sự thật
211. Trong một xã hội đa nguyên, không phải sự đồng thuận nhất thời, mà chính đối thoại mới là con đường thích hợp nhất dẫn đến việc nhận ra những gì phải luôn được khẳng định và tôn trọng. Cuộc đối thoại như thế cần được làm cho phong phú và soi sáng bằng các chứng cứ, các lý lẽ, các viễn cảnh khác nhau, cũng như bằng các đóng góp từ những hiểu biết và quan điểm khác nhau. Cuộc đối thoại này không loại trừ niềm xác tín rằng có thể đạt tới một số chân lý cơ bản phải luôn được bảo vệ. Việc thừa nhận có những giá trị thường hằng như thế, mặc dù không phải lúc nào cũng dễ nhận ra, mang lại sự bền vững và ổn định cho đạo đức xã hội. Ngay cả khi những giá trị ấy đã được nhận biết và thừa nhận nhờ sự đối thoại và đồng thuận, thì chúng ta cũng thấy rằng những giá trị nền tảng này luôn vượt trên mọi đồng thuận, trên mọi hoàn cảnh cụ thể và là điều không thể bàn cãi. Chúng ta có thể ngày càng hiểu biết hơn về ý nghĩa và tầm quan trọng của các giá trị này – và theo chiều hướng đó, đồng thuận là một thực tại năng động – nhưng tự thân, các giá trị này được coi là bền vững vì ý nghĩa nội tại của chúng.
212. Nếu luôn có điều gì đó giúp cho xã hội được vận hành cách tốt đẹp, há chẳng phải vì ẩn đằng sau là một chân lý thường hằng mà trí năng có thể nắm bắt được hay sao? Trong chính thực tại của con người và của xã hội, trong bản chất sâu xa của chúng có một loạt cơ cấu nền tảng nâng đỡ sự phát triển và tồn tại của cả hai. Từ đó phát sinh ra một số yêu cầu, vốn có thể nhận biết nhờ đối thoại, cho dù những yêu cầu ấy, nói cho ngay, không là kết quả của sự đồng thuận. Sự kiện một số quy tắc là thiết yếu cho chính đời sống xã hội là dấu chỉ cho thấy chúng là điều tốt tự thân. Vì thế, không cần phải đặt tiện ích xã hội, sự đồng thuận và chân lý khách quan đối nghịch với nhau. Ba thực tại này có thể kết hợp hài hòa khi người ta, bằng cách đối thoại, dám đi đến tận cùng vấn đề.
213. Trong mọi hoàn cảnh, phải tôn trọng phẩm giá của người khác, tôn trọng không phải vì chúng ta đã thiết định hay tưởng tượng ra phẩm giá ấy, nhưng bởi vì họ thực sự có giá trị, giá trị này vượt trên vật chất và các hoàn cảnh. Điều này đòi buộc chúng ta phải đối xử với họ khác với các sự vật. Mỗi người đều có một phẩm giá không thể tước bỏ. Đây là chân lý tương hợp với bản tính con người bất chấp mọi thay đổi về văn hoá. Chính vì thế, mọi người đều có cùng một phẩm giá bất khả xâm phạm như nhau, bất kể thời đại lịch sử và cũng vì thế không ai, do hoàn cảnh đặc biệt nào đó, có thể cho rằng mình có quyền phủ nhận niềm xác tín ấy hoặc không hành xử phù hợp với niềm xác tín ấy. Do đó, trí năng có thể săm soi thực tại các sự vật thông qua suy tư, kinh nghiệm và đối thoại, để nhận ra nơi thực tại ấy và vượt khỏi thực tại ấy, nền tảng của những mệnh lệnh luân lý phổ quát nhất định.
214. Nền tảng này xem ra là đủ để những người theo thuyết bất khả tri gán cho những nguyên tắc đạo đức căn bản và bất khả thương lượng một giá trị phổ quát chắc chắn và bền vững có khả năng ngăn ngừa những thảm họa mới. Đối với các tín hữu, bản tính nhân loại này, là nguồn phát sinh các nguyên tắc đạo đức, đã được Thiên Chúa tạo dựng và cuối cùng cũng chính Thiên Chúa đã phú cho các nguyên tắc ấy một nền tảng vững chắc[203]. Điều này không đưa đến một nền đạo đức cứng nhắc, cũng không hàm ý áp đặt bất kỳ một hệ thống luân lý nào, bởi lẽ từ các nguyên tắc luân lý cơ bản và các giá trị phổ quát này có thể nảy sinh những quy tắc thực hành khác nhau. Song, vẫn luôn có chỗ cho đối thoại.
MỘT NỀN VĂN HÓA MỚI
215. “Cuộc sống là nghệ thuật gặp gỡ giữa biết bao bất đồng”[204]. Đã nhiều lần tôi mời gọi phát triển một nền văn hóa gặp gỡ vượt lên những biện chứng đối kháng nhau. Đó là một lối sống nhằm tạo nên một khối đa diện với nhiều góc cạnh, nhưng vẫn là một thể thống nhất mang nhiều sắc thái, bởi vì “toàn thể lớn hơn thành phần”[205]. Khối đa diện này là hình ảnh của một xã hội có nhiều khác biệt, bổ sung, làm phong phú và soi sáng lẫn nhau cho dù vẫn có những bất đồng và ngờ vực. Thật vậy, người ta có thể học hỏi lẫn nhau, không ai là vô dụng, không ai là thừa thãi. Điều này hàm ý rằng cả những người sống ở vùng ngoại vi cũng được hội nhập vào. Những người này có lối nhìn khác. Họ thấy các khía cạnh của thực tại mà các trung tâm quyền lực, nơi đưa ra các quyết định quan trọng nhất, lại không nhận ra.
Gặp gỡ trở thành văn hóa
216. Từ “văn hóa” diễn tả điều gì đó đã bám rễ sâu vào một dân tộc, trong những xác tín sâu xa nhất và trong nếp sống của dân tộc ấy. Nếu chúng ta nói về một nền “văn hóa” trong một dân tộc thì đó không chỉ là một ý tưởng hay một điều trừu tượng. Văn hóa bao gồm tâm tư, ước nguyện và sau hết là cung cách sống của nhóm dân đó. Vì thế, nói về “văn hóa gặp gỡ” nghĩa là muốn nói rằng, là một dân tộc, chúng ta phải ham mê gặp gỡ nhau, tìm những điểm chung, xây dựng những cầu nối, thiết lập những kế hoạch dành cho hết mọi người. Điều này trở nên khát vọng và lối sống, Chủ thể của nền văn hóa này là dân chúng chứ không phải một bộ phận của xã hội ra sức giữ bình ổn phần còn lại bằng các phương tiện chuyên môn và truyền thông.
217. Xây dựng hòa bình xã hội là việc khó, đòi hỏi phải có sự khéo léo. Trong khi việc kiềm chế tự do và hạn chế những khác biệt có lẽ sẽ dễ dàng hơn với một chút mánh lới và phương tiện. Nhưng thứ hòa bình ấy hẳn là mong manh, hời hợt vì không phải là kết quả của một nền văn hóa gặp gỡ vốn hậu thuẫn cho hòa bình. Hòa nhập những khác biệt là một tiến trình khó khăn và chậm chạp hơn nhiều, nhưng chỉ có tiến trình này mới bảo đảm một nền hòa bình đích thực và bền vững. Sẽ không có được thứ hòa bình ấy nếu chỉ huy động được những phần tử trung kiên, bởi lẽ “ngay cả những người mắc sai lầm đáng chỉ trích vẫn có thể cống hiến điều gì đó mà ta chớ nên xem thường bỏ qua”[206]. Đó không phải là một thứ hòa bình xuất phát từ việc bóp nghẹt những yêu sách xã hội hay cấm đoán mọi chống đối, cũng không phải là “một sự đồng thuận trên giấy tờ hay một thứ hòa bình tạm bợ dành cho một thiểu số hài lòng sung sướng”[207]. Điều quan trọng là thiết lập những tiến trình gặp gỡ, những tiến trình làm nên một dân tộc có khả năng chấp nhận những khác biệt. Chúng ta hãy trang bị cho con em mình vũ khí của đối thoại. Hãy dạy cho chúng biết chiến đấu cho cuộc chiến cao đẹp của nền văn hóa gặp gỡ!
Niềm vui khi nhìn nhận người khác
218. Điều này bao hàm việc nhìn nhận người khác có quyền là chính họ và quyền được khác biệt. Khi việc nhìn nhận này trở thành văn hóa, thì mới có thể thiết lập được một thỏa ước xã hội. Ngược lại, không có sự nhìn nhận này, sẽ xuất hiện nhiều cách thức tinh vi nhằm làm cho người khác không còn ý nghĩa, không đáng kể và không có giá trị gì trong xã hội. Việc loại trừ một số hình thức bạo lực thể lý bên ngoài, lắm khi lại là che đậy một thứ bạo lực khác xảo trá hơn: đó là khinh miệt những ai khác với mình, nhất là khi những đòi hỏi của họ cách nào đó gây tổn hại cho những lợi ích của mình.
219. Khi một thành phần xã hội cho rằng phải tận dụng tất cả những gì thế giới cống hiến, và làm như thể người nghèo không hề hiện hữu, điều này đến lúc nào đó sẽ gây ra hậu quả. Sớm muộn gì thì việc phớt lờ sự hiện diện và quyền lợi của người khác cũng sẽ gây ra một hình thức bạo lực nào đó, nhiều khi không lường trước được. Ước mơ về tự do, bình đẳng và huynh đệ mãi mãi vẫn chỉ là hình thức nếu chúng không được áp dụng cho hết mọi người. Vấn đề không chỉ là tìm kiếm cuộc gặp gỡ giữa những người nắm giữ quyền lực kinh tế, chính trị hay học thuật. Cuộc gặp gỡ xã hội thực sự trong đối thoại sẽ là cuộc gặp gỡ đúng nghĩa giữa các nền văn hóa lớn của đại đa số dân cư. Lắm lúc những thiện chí được nêu lên không được các thành phần nghèo nhất tán thành, bởi vì những thiện chí ấy được trình bày dưới trang phục văn hóa không phải là trang phục của họ, thế nên họ không thể nhận ra. Do đó, một thỏa ước xã hội mang tính hiện thực và được đại đa số chấp nhận cũng phải là một “thỏa ước văn hóa”, nghĩa là một thỏa ước biết tôn trọng và nhìn nhận các thế giới quan, các nền văn hóa và các lối sống khác nhau cùng tồn tại trong xã hội.
220. Chẳng hạn, các dân tộc bản địa không chống lại sự tiến bộ, nhưng họ có cách hiểu khác về tiến bộ, và thường mang tính nhân văn hơn so với cách hiểu của nền văn hóa hiện đại thuộc thế giới phát triển. Đó không phải là nền văn hóa nhắm đến lợi ích của những kẻ có quyền, những kẻ mong muốn thiết lập một loại thiên đường vĩnh cửu trên trần gian. Thái độ bất bao dung và khinh miệt đối với nền văn hóa dân tộc bản địa thực sự là một hình thức bạo lực, cách riêng là của tầng lớp tinh hoa thiếu từ tâm, chuyên phán xét người khác. Song, không thể có được sự thay đổi đích thực sâu xa và lâu dài nào nếu không khởi đi từ những nền văn hóa khác nhau, đặc biệt là các nền văn hóa của người nghèo. Để có được một thỏa ước văn hóa cần giả định rằng phải loại bỏ cách hiểu cục bộ về tính đồng nhất địa phương, đồng thời phải tôn trọng sự đa dạng nhờ đó mở ra cho cư dân địa phương những cơ hội thăng tiến và hòa nhập vào cuộc sống toàn xã hội.
221. Thỏa ước này cũng đòi hỏi phải chấp nhận việc nhượng bộ điều gì đó vì công ích. Không ai có thể nắm giữ toàn bộ chân lý hay có thể thỏa mãn mọi ước muốn của mình, bởi lẽ, khả năng này, nếu có, sẽ dẫn đến việc phủ nhận quyền lợi của tha nhân và bằng cách đó sẽ hủy diệt họ. Những ai tin rằng họ phải trung thành với các nguyên tắc của mình đồng thời vẫn thừa nhận rằng người khác cũng có quyền trung thành với các nguyên tắc của người đó thì họ sẽ tránh được quan niệm sai lầm về lòng bao dung, thay vào đó qua việc đối thoại họ sẽ thấy được thực tại. Việc nhìn nhận tha nhân như thế mới là thật và chỉ có tình yêu mới có thể làm được, và điều đó có nghĩa là đặt mình vào vào vị trí của người khác để khám phá ra, giữa những động lực và các mối quan tâm của họ, đâu là điều xác thực, hay ít ra là để có thể hiểu được họ!
Bài này đã được xem 1481 lần!